(LSVN) – Việc hoàn thiện quy định pháp luật về quyền đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Các giải pháp như ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết, làm rõ danh mục tài liệu, quy định thiết bị và chi phí, cá thể hóa trách nhiệm, tăng cường giám sát, và ứng dụng công nghệ sẽ giúp khắc phục các bất cập hiện tại, đảm bảo quyền bào chữa được thực hiện đầy đủ, góp phần nâng cao tính minh bạch, công bằng và hiệu quả của quá trình tố tụng hình sự tại Việt Nam.
Quyền đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án của người bào chữa là một trong những quyền cơ bản được quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 nhằm đảm bảo quyền bào chữa hiệu quả cho người bị buộc tội. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy nhiều bất cập, từ việc thiếu hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục, đến các vấn đề liên quan đến thiết bị sao chụp, chi phí và bảo mật thông tin. Để hoàn thiện quy định pháp luật về quyền này, cần đưa ra các giải pháp cụ thể, đồng bộ, vừa bảo đảm quyền lợi của người bào chữa và bị can, vừa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp tại Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Thứ nhất, cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện quyền đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án.
Hiện nay, Điều 82 BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan tố tụng phải bố trí thời gian, địa điểm để người bào chữa thực hiện quyền này, nhưng chưa có quy định cụ thể về thời hạn, địa điểm, hay cơ sở vật chất. Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật giữa các cơ quan tố tụng. Do đó, cần ban hành một Thông tư hoặc Nghị định quy định rõ thời hạn tối đa (Ví dụ 7 ngày kể từ khi nhận yêu cầu), địa điểm cụ thể (tại trụ sở cơ quan tố tụng hoặc phòng làm việc được trang bị thiết bị sao chụp), và yêu cầu cơ quan tố tụng cung cấp hoặc cho phép sử dụng các thiết bị như máy photocopy, máy quét.
Đồng thời, cần đồng bộ với Thông tư liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP thủ tục bị can hoặc người đại diện của pháp nhân thương mại phạm tội đọc, ghi chép bản sao tài liên quan đến việc bào chữa, bổ sung hướng dẫn về mẫu đơn yêu cầu sao chụp và quy trình xử lý, đảm bảo quyền này được thực hiện thống nhất.
Thứ hai, cần làm rõ khái niệm “tài liệu liên quan đến việc bào chữa” để tránh việc cơ quan tố tụng từ chối cung cấp tài liệu với lý do không liên quan.
Hiện nay, Điều 73 và Điều 82 BLTTHS năm 2015 chưa định nghĩa rõ danh mục tài liệu mà người bào chữa được quyền tiếp cận, dẫn đến tranh cãi trong thực tiễn. Để khắc phục, cần ban hành văn bản hướng dẫn quy định rằng “tài liệu liên quan đến việc bào chữa” bao gồm tất cả tài liệu trong hồ sơ vụ án, trừ các tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước hoặc liên quan đến bí mật cá nhân, gia đình theo khoản 2 Điều 109 BLTTHS. Danh mục tài liệu cụ thể nên bao gồm biên bản hỏi cung, biên bản khám xét, kết luận giám định, bản cáo trạng, quyết định tố tụng, và các tài liệu chứng cứ khác. Ngoài ra, cần quy định cơ chế khiếu nại và xử lý khi cơ quan tố tụng từ chối cung cấp tài liệu mà người bào chữa cho rằng cần thiết, đảm bảo quyền bào chữa không bị cản trở.
Thứ ba, cần quy định rõ về thiết bị và phương tiện sao chụp để đảm bảo tính bảo mật và hiệu quả.
Hiện nay, việc sử dụng thiết bị như máy ảnh, điện thoại, hoặc máy quét chưa được quy định cụ thể, dẫn đến nguy cơ rò rỉ thông tin hoặc khó khăn trong việc kiểm soát. Vì vậy, cần lập danh mục thiết bị được phép sử dụng, yêu cầu cơ quan tố tụng kiểm định và dán tem cho các thiết bị điện tử của người bào chữa trước khi sử dụng. Đồng thời, người bào chữa cần ký cam kết không sử dụng tài liệu sao chụp vào mục đích ngoài việc bào chữa, và chịu trách nhiệm pháp lý nếu vi phạm. Cơ quan tố tụng cũng cần cung cấp máy móc tại chỗ để hỗ trợ sao chụp, giảm thiểu chi phí và rủi ro.
Thứ tư, về chi phí sao chụp, cần phải xem chi phí sao chụp là một loại trong các chi phí tố tụng, từ đó đặt ra một mức phí cụ thể. Bên cạnh đó, vẫn phải bảo đảm rằng điều này không gây khó khăn cho người bào chữa hoặc bị can thuộc nhóm yếu thế, như người nghèo hoặc người được trợ giúp pháp lý. Tác giả đề xuất, cần quy định miễn phí sao chụp cho các trường hợp được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý, đồng thời đưa ra mức phí hợp lý cho các trường hợp khác. Cơ quan tố tụng cũng cần cung cấp dịch vụ sao chụp tại chỗ để đảm bảo chất lượng và bảo mật.
Thứ năm, cần cá thể hóa trách nhiệm và quy định chế tài xử lý vi phạm. Hiện nay, chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cán bộ tố tụng trong việc giám sát quá trình đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ, cũng như chế tài đối với người bào chữa làm mất, hư hỏng, hoặc tiết lộ tài liệu. Do đó, cần chỉ định cá nhân cụ thể trong cơ quan tố tụng chịu trách nhiệm giám sát, đồng thời bổ sung chế tài hành chính hoặc hình sự trong Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, như phạt tiền hoặc tước quyền hành nghề luật sư đối với các vi phạm nghiêm trọng. Ngoài ra, cần quy định rõ trình tự lưu trữ và tiêu hủy tài liệu sao chụp sau khi bản án có hiệu lực để tránh rò rỉ thông tin.
Cuối cùng, trong bối cảnh chuyển đổi số, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả. Việc số hóa hồ sơ vụ án và cho phép người bào chữa tiếp cận qua hệ thống quản lý hồ sơ điện tử sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Tuy nhiên, cần áp dụng các biện pháp bảo mật như mã hóa và xác thực danh tính để đảm bảo an toàn thông tin, tránh rò rỉ dữ liệu nhạy cảm.
Tóm lại, việc hoàn thiện quy định pháp luật về quyền đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Các giải pháp như ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết, làm rõ danh mục tài liệu, quy định thiết bị và chi phí, cá thể hóa trách nhiệm, tăng cường giám sát, và ứng dụng công nghệ sẽ giúp khắc phục các bất cập hiện tại, đảm bảo quyền bào chữa được thực hiện đầy đủ, góp phần nâng cao tính minh bạch, công bằng và hiệu quả của quá trình Tố tụng hình sự tại Việt Nam.
Nguồn: Phạm Minh Đô – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam
Để lại một bình luận