Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đất đai trong phát triển bền vững ở Việt Nam

Bài viết tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững và quyền tiếp cận thông tin đất đai, đánh giá thực trạng quy định về quyền tiếp cận thông tin đất đai ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số kiến nghị bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đất đai trong thời gian tới.

1. Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững và quyền tiếp cận thông tin đất đai

1.1. Phát triển bền vững

Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu, không chỉ riêng với bất kỳ quốc gia nào. Trong tiến trình phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện những vấn đề bức xúc mang tính phổ biến như: (i) Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc. (ii) Sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội. Có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế làm giãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội. Vì vậy, quá trình phát triển cần có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an ninh xã hội và bảo vệ môi trường hay phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới[1].

Khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc đến vào năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên (IUCN) đã đưa ra mục tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp nhất, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái trong lĩnh vực môi trường, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật dưới nước và trên đất liền.

Đến năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) của Liên Hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa là “sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”[2]. Quan niệm này tập trung nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường phát triển của con người trong tương lai. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi giúp tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai.

Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002: “Phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 03 mặt của sự phát triển, gồm: Phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng, chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là “một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.

Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển bao gồm: Kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể là: (i) Kinh tế tăng trưởng bền vững; (ii) Xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng; (iii) Môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.

1.2. Quyền tiếp cận thông tin về đất đai

Quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân thuộc nhóm quyền dân sự – chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được khẳng định trong nhiều điều ước quốc tế khác như Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng, Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển, Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường[3].

Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, từ khoản 1 đến khoản 3 Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định: “Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra”; “thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản” và “tiếp cận thông tin là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin”.

Theo nghĩa hẹp, quyền tiếp cận thông tin là quyền của mỗi cá nhân được phép đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép và chụp các tài liệu chứa thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ. Ở phạm vi rộng hơn, quyền tiếp cận thông tin bao gồm quyền tự do ý kiến và thông tin qua việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thông tin[4].

Tại Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Theo đó, Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trong việc quản lý đất đai và thông tin đầy đủ, công khai, minh bạch về quản lý đất đai cho các chủ sở hữu khác (toàn dân). Quyền tiếp cận thông tin về đất đai được hiểu là quyền của mỗi cá nhân được tự do ý kiến và tự do thông tin về đất đai, cụ thể là đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin tài liệu về đất đai do Nhà nước quản lý và xây dựng. Thông tin về đất đai có thể phân loại thành hai nhóm chủ yếu: (i) Nhóm thông tin trong việc quản lý đất đai bao gồm hệ thống các thông tin cơ bản về đất đai do Nhà nước lưu trữ và sử dụng trong quá trình quản lý đất đai; (ii) Nhóm thông tin trong việc quy hoạch đất đai bao gồm hệ thống các thông tin liên quan đến quy hoạch phát triển đất đai, cơ sở hạ tầng, các tài nguyên và chính sách khác trên đất.

Nội dung của quyền tiếp cận thông tin về đất đai của người dân được thể hiện dưới hai góc độ: (i) Nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin về đất đai một cách công khai, đầy đủ và minh bạch; (ii) Mọi công dân đều có quyền yêu cầu Nhà nước phải cung cấp các thông tin về đất đai theo đúng quy định của pháp luật.

2. Thực trạng quy định về quyền tiếp cận thông tin đất đai ở Việt Nam

2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam

2.1.1. Hiến pháp

Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên xác định quyền được thông tin là quyền cơ bản của công dân. Cụ thể hóa Hiến pháp, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền được thông tin của công dân trong một số lĩnh vực, góp phần xây dựng một xã hội “cởi mở” hơn về thông tin và một Chính phủ công khai, minh bạch hơn, trách nhiệm giải trình cao hơn trong hoạt động quản lý, điều hành đất nước, góp phần đưa chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” từng bước đi vào cuộc sống.

Hiến pháp năm 2013 kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền được thông tin của công dân và sửa đổi thành quyền tiếp cận thông tin của công dân. Lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 2013 quy định các nguyên tắc thực hiện quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin; khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3). Hiến pháp năm 2013 quy định, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (Điều 14). Quyền tiếp cận thông tin đã được nâng lên thành quyền hiến định (được ghi nhận cụ thể tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013) và được bảo đảm thực hiện.

2.1.2. Luật Đất đai năm 2013[5]

Tại Điều 28 Luật Đất đai năm 2013 đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất đai và thể hiện cụ thể trong các hoạt động như: (i) Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin đất đai và bảo đảm quyền tiếp cận của tổ chức, cá nhân đối với hệ thống thông tin đất đai; (ii) Công bố kịp thời, công khai thông tin thuộc hệ thống thông tin đất đai cho tổ chức, cá nhân, trừ những thông tin thuộc bí mật theo quy định của pháp luật;
(iii) Thông báo quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai cho tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp; (iv) Cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong quản lý, sử dụng đất đai có trách nhiệm tạo điều kiện, cung cấp thông tin về đất đai cho tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Dù đã có tiến bộ so với Luật Đất đai năm 2003 vì đã ghi nhận trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thành một điều luật riêng biệt để quy định rõ trách nhiệm thể hiện sự công khai, minh bạch hóa thông tin, nhưng quy định của Luật Đất đai năm 2013 vẫn phần nào thể hiện “ngầm” cơ chế “xin – cho”.

Bên cạnh đó, quyền tiếp cận thông tin đất đai còn được ghi nhận qua từng giai đoạn: Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Một trong những nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại Điều 35 Luật Đất đai năm 2013 là dân chủ và công khai. Nguyên tắc này được cụ thể hóa hơn trong nội dung của Điều 43 về lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và Điều 48 về công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Quy định về trình tự thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích của quốc gia, cộng đồng cũng đặt ra trách nhiệm của cơ quan nhà nước (Ủy ban nhân dân các cấp) trong việc thông báo thu hồi đất[6], cụ thể: Thông báo thu hồi đất đến người có đất bị thu hồi; họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; niêm yết thông tin tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.

Quy định về việc công bố công khai bảng giá đất tại địa phương cũng làm rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cụ thể: Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổ chức xây dựng, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành bảng giá đất tại địa phương định kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kỳ[7]; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kỳ[8].

Quy định tại Điều 122 và Điều 123 Luật Đất đai năm 2013 khẳng định việc Nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức được sử dụng, khai thác các thông tin và cơ sở dữ liệu về đất đai, cụ thể, khoản 3 Điều 122 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tổ chức, cá nhân có nhu cầu về thông tin, dữ liệu đất đai được khai thác, sử dụng qua cổng thông tin đất đai ở trung ương, địa phương và phải nộp phí; khi thực hiện khai thác thông tin, dữ liệu đất đai phải thực hiện đúng quy định của pháp luật”. Trong xu hướng chuyển đổi số nói chung và công cuộc xây dựng Chính phủ điện tử, dịch vụ hành chính công đặc biệt trong lĩnh vực đất đai được Nhà nước hết sức chú trọng. Một trong những dịch vụ công trực tuyến quan trọng đó là cung cấp thông tin, dữ liệu về đất đai[9]. Tuy nhiên, các quy định cần được làm rõ hơn để xác định nội dung các dịch vụ hành chính công, tránh việc làm cho có, hoặc tạo cơ hội cho những sai phạm khác.

Ngoài ra, các thủ tục hành chính về đất đai cũng phải được công khai theo quy định Điều 196 Luật Đất đai năm 2013. Các thủ tục hành chính về đất đai phải công khai bao gồm: Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả; thời gian giải quyết đối với mỗi thủ tục hành chính; thành phần hồ sơ đối với từng thủ tục hành chính; quy trình và trách nhiệm giải quyết từng loại thủ tục hành chính; nghĩa vụ tài chính, phí và lệ phí phải nộp đối với từng thủ tục hành chính. Các nội dung này được quy định thực hiện bằng hình thức niêm yết thường xuyên tại trụ sở cơ quan tiếp nhận và trả hồ sơ kết quả; đăng tải lên trang thông tin điện tử cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện[10].

2.1.3. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016

Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định, công dân được tiếp cận thông tin qua các cách thức sau: (i) Tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai; (ii) Yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin. Đối với một số thông tin tiếp cận có điều kiện thì chủ thể tiếp cận phải có yêu cầu và thực hiện các nghĩa vụ cần thiết theo quy định, ví dụ như cần có phiếu yêu cầu thông tin tiếp cận, một số trường hợp cần phải trả phí tiếp cận thông tin…

Hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu được thực hiện bằng một trong các hình thức như trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin hoặc qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax. Thông tư số 34/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai (Thông tư số 34/2014/TT-BTNMT), trong đó quy định rõ việc khai thác thông tin đất đai thông qua phiếu yêu cầu hoặc văn bản tại cơ quan có thẩm quyền cung cấp dữ liệu đất đai.

Về cách thức yêu cầu khai thác thông tin về đất đai, tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác dữ liệu đất đai nộp phiếu yêu cầu hoặc gửi văn bản yêu cầu cho các cơ quan cung cấp dữ liệu đất đai. Khi nhận được phiếu yêu cầu, văn bản yêu cầu hợp lệ của tổ chức, cá nhân, cơ quan cung cấp dữ liệu đất đai thực hiện việc cung cấp dữ liệu. Trường hợp từ chối cung cấp dữ liệu thì phải có văn bản trả lời nêu rõ lý do. Việc khai thác dữ liệu thông qua phiếu yêu cầu hoặc văn bản yêu cầu được thực hiện theo các quy định của pháp luật. Bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin về đất đai của công dân là hoạt động góp phần bảo đảm quyền con người, bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường tính minh bạch của pháp luật. Mặt khác, bảo đảm thực hiện pháp luật về quyền tiếp cận thông tin về đất đai góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng và là sự thể hiện của việc nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước[11].

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật    

Thứ nhất, hiện nay, các thông tin công khai về đất đai còn hạn chế, một số cổng/trang thông tin điện tử chưa cập nhật kịp thời để người dân truy cập khi cần thiết. “Nghiên cứu thực chứng hướng tới thúc đẩy việc tiếp cận thông tin đất đai của người dân” do Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam và Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW) phối hợp thực hiện từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022 thông qua việc rà soát cổng thông tin điện tử chính thức của 63 tỉnh, thành phố và 704 quận, huyện, thị xã (sau đây gọi là đơn vị cấp huyện) trên toàn quốc cho thấy, mức độ công khai thông tin đất đai của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện được đánh giá dựa trên 05 tiêu chí bao gồm: (i) Công khai thông tin; (ii) Khả năng tìm kiếm thông tin; (iii) Tính kịp thời của thông tin; (iv) Tính đầy đủ của thông tin (đối với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và kế hoạch sử dụng đất cấp huyện); (v) Khả năng sử dụng thông tin (dễ đọc, dễ hiểu và đọc được bằng các phần mềm thông dụng)[12].

Kết quả rà soát cổng/trang thông tin điện tử cho thấy, có 345/704 đơn vị cấp huyện đã đăng tải Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021 – 2030 trên cổng/trang thông tin điện tử; có 389/704 đơn vị cấp huyện đã đăng tải Kế hoạch sử dụng đất năm 2022 trên cổng/trang thông tin điện tử; có 337/704 đơn vị cấp huyện công khai kế hoạch sử dụng đất năm 2021 trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong năm 2021; có 389/704 đơn vị cấp huyện công khai kế hoạch sử dụng đất năm 2022 trên trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong năm 2022. Với kết quả trên, có thể thấy, tình hình đăng tải thông tin đất đai của một số cơ quan nhà nước còn chậm trễ, chưa sát sao, qua đó phần nào phản ánh được thực tiễn thực hiện quyền tiếp cận thông tin đất đai của người dân chưa thực sự được bảo đảm.

Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra những bất cập trong quyền tiếp cận thông tin đất đai khi gửi yêu cầu trực tiếp đến các cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, có 561 yêu cầu cung cấp thông tin được gửi tới 140 đơn vị cấp huyện và kết quả so sánh giữa năm 2021 và 2022 cho thấy, tỷ lệ cung cấp thông tin đã tăng lên và tỷ lệ từ chối đã giảm đi nhưng không đáng kể. Bên cạnh đó, tỷ lệ không phản hồi vẫn chiếm phần lớn, thậm chí, năm 2022 đang có xu hướng tăng lên so với năm 2021.

Thứ hai, trên thực tế còn tồn tại nhiều tình huống vướng mắc pháp lý xuất phát từ việc thiếu thông tin về đất đai nên còn khó khăn trong việc thực hiện quyền tiếp cận và khai thác thông tin về đất đai của người dân. Trong một số trường hợp, những vướng mắc này đến từ việc quản lý, lưu trữ hồ sơ đất đai của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai còn bất cập; người có trách nhiệm cung cấp thông tin về đất đai tại cơ quan quản lý đất đai cấp địa phương, vì điều kiện phải lưu trữ hồ sơ bản giấy qua nhiều năm nên dẫn đến thất lạc, hư hỏng tài liệu, hoặc vì năng lực chuyên môn còn hạn chế, hay vì những lý do không chính đáng của cá nhân mà gây ảnh hưởng đến quyền được tiếp cận thông tin dữ liệu đất đai của người dân.

Thứ ba, hiện nay, Trung tâm Dữ liệu và Thông tin đất đai thuộc Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan lưu giữ thông tin số về dữ liệu đất đai lớn nhất cả nước, chịu trách nhiệm cung cấp dữ liệu đất đai cho công dân theo thủ tục hành chính được niêm yết công khai, phương thức yêu cầu thực hiện thuận tiện, thời hạn giải quyết yêu cầu trong ngày hoặc trong ngày làm việc tiếp theo. Thông tư số 34/2014/TT-BTNMT quy định về đối tượng áp dụng Thông tư này bao gồm: “1. Cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường; cơ quan chuyên môn về tài nguyên và môi trường; công chức địa chính xã, phường, thị trấn. 2. Các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai”. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định cá nhân liên quan đến việc xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai để xác định người có quyền yêu cầu cung cấp thông tin lại còn tồn tại một số bất cập. Đơn cử, có những cơ quan yêu cầu người yêu cầu cung cấp thông tin xuất trình tài liệu chứng minh quyền của mình đối với thửa đất đang được yêu cầu mới thực hiện thủ tục hành chính. Điều này không chỉ xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người có quyền lợi liên quan hoặc đang trong một mối quan hệ dân sự mà cần thiết phải xác minh thông tin của thửa đất mới có thể thực hiện được, mà còn vi phạm nguyên tắc xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai: “… xây dựng theo một hệ thống thiết kế thống nhất, đồng bộ trên phạm vi cả nước; cung cấp dữ liệu đất đai cho nhiều đối tượng sử dụng và phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng” (Điều 4 Thông tư số 34/2014/TT-BTNMT).

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, quyền tiếp cận thông tin đất đai thể hiện qua 02 khía cạnh, đó là thông tin cơ quan nhà nước công khai và yêu cầu đề nghị cung cấp thông tin, Luật Đất đai năm 2013 mới đang đề cập trách nhiệm của cơ quan nhà nước. Luật Đất đai năm 2024 đã bổ sung một mục riêng ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân đối với đất đai nhưng chưa thực sự phù hợp về kỹ thuật lập pháp. Quyền tiếp cận thông tin đất đai quy định là một quyền cơ bản của công dân đối với đất đai, không nên tách riêng ra khỏi quy định về quyền của công dân đối với đất đai. Vì vậy, theo tác giả, nên bổ sung quyền tiếp cận thông tin đất đai vào điều về quyền của
công dân đối với đất đai, chi tiết hóa nội dung quyền và bảo đảm tính logic trong một điều khoản khác.

Thứ hai, về trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất đai được ghi nhận tại Điều 28 Luật Đất đai năm 2013 cũng cần được hoàn thiện hơn để đổi mới tư duy trong cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm quyền tiếp cận của người sử dụng đất và tổ chức, cá nhân khác đối với Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai.

Thứ ba, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong trường hợp xâm phạm đến quyền tiếp cận thông tin đất đai của người dân. Các cơ quan bảo vệ quyền tiếp cận thông tin nói chung, quyền tiếp cận thông tin đất đai nói riêng cần được nghiên cứu và xác định rõ, tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”.

Thứ đề xuất xây dựng nội dung thống nhất trong việc thi hành Thông tư số 34/2014/TT-BTNMT trên thực tế giữa các cơ quan quản lý đất đai các cấp để không còn tình trạng công dân gặp phải những khó khăn không đáng có khi yêu cầu thủ tục hành chính công trong lĩnh vực đất đai. Các nội dung đề xuất được hướng dẫn hoặc tập huấn tại địa phương như: Xác định các đối tượng được quyền yêu cầu cung cấp thông tin dữ liệu đất đai; các trường hợp được chuyển cơ quan đề nghị thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin dữ liệu đất đai, tránh trường hợp “đùn đẩy”, thiếu chuyên nghiệp, gây phiền nhiễu, mất thời gian của công dân; xác định, phân loại các nội dung yêu cầu cung cấp đất đai để xác định phạm vi dữ liệu đất đai cần cung cấp cho công dân, không hạn chế quyền lợi chính đáng của người sử dụng đất, người có quyền với đất.

Ngọc Linh

Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

https://danchuphapluat.vn/bao-dam-quyen-tiep-can-thong-tin-dat-dai-trong-phat-trien-ben-vung-o-viet-nam

[1]. Bộ Công Thương, Phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí đánh giá và định hướng phát triển, https://moit.gov.vn/phat-trien-ben-vung/phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-tieu-chi-danh-gia-va-dinh-huo.html.

[2]. Bộ Công Thương, Tlđd.

[3]. Mạnh Hùng, Bảo đảm và thực hiện quyền tiếp cận thông tin với tư cách là quyền cơ bản của công dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://dangcongsan.vn/day-manh-cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/bao-dam-thuc-hien-quyen-tiep-can-thong-tin-voi-tu-cach-la-quyen-co-ban-cua-cong-dan-402139.html.

[4]. Lê Thị Hồng Hạnh, Quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 07, tháng 4/2022.

[5]. Ngày 18/01/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 (thay thế Luật Đất đai năm 2013).

[6]. Điều 69 Luật Đất đai năm 2013.

[7]. Khoản 5 Điều 12 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ quy định về giá đất.

[8]. Khoản 1 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013.

[9]. Khoản 1 Điều 123 Luật Đất đai năm 2013.

[10]. Khoản 2 Điều 196 Luật Đất đai năm 2013.

[11]. Bùi Thị Thuận Ánh (2021), Thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai từ thực tiễn Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tập 130, Số 6C, 2021, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Xã hội và Nhân văn, tr. 213 – 227.

[12]. Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam (2023), “Nghiên cứu thực chứng hướng tới thúc đẩy việc tiếp cận thông tin đất đai của người dân”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan