(LSVN) – Theo Luật sư, đây là nội dung mới tại Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, số 99/2025/QH15 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025.
Cụ thể, tại khoản 27, 29 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2025 đã bổ sung thêm quy định tại Điều 233 và Điều 243 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, cơ quan điều tra có thể kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can, Viện kiểm sát có thể quyết định truy tố bị can khi đã có đủ căn cứ và bảo đảm quyền bào chữa cho bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự trong các trường hợp:
– Bị can trốn hoặc không biết bị can ở đâu và việc truy nã không có kết quả;
– Bị can đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ các hoạt động điều tra, hoạt động nhằm quyết định việc truy tố.
Kết luận điều tra phải được niêm yết trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ban hành kết luận điều tra đề nghị truy tố đối với bị can theo quy định trên nếu không thể giao được cho bị can.
Cáo trạng phải được niêm yết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản cáo trạng theo quy định trên nếu không thể giao được cho bị can.
Trước đây, nội dung này không quy định tại Điều 233, Điều 243 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Về vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước đây quy định, trong trường hợp bị can bỏ trốn, không biết bị can ở đâu thì sẽ tạm đình chỉ đối với bị can và tiến hành truy nã bị can, khi nào bắt được bị can thì sẽ phục hồi điều tra và tiếp tục xử lý.
Đối với bị can đã bị truy tố mà bỏ trốn thì có thể xét xử vắng mặt bị can. Tuy nhiên, thời gian qua không ít các bị can bỏ trốn trong quá trình điều tra, làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là đối với tội phạm tham nhũng và chức vụ.
Có những trường hợp có nghi ngờ bị can trốn ra nước ngoài nhưng khi quan cơ quan tiến hành tố tụng liên hệ với nước sở tại thì họ lại yêu cầu phải có bản án có hiệu lực pháp luật thì mới đồng ý cho dẫn độ theo hiệp định tương trợ tư pháp.
Trường hợp mới chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, chưa có bản án có hiệu lực pháp luật luật thì nhiều quốc gia từ chối dẫn độ dẫn đến khó khăn trong việc xử lý tội phạm.
Trước tình hình đó, để đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm giai đoạn hiện nay thì Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2025 đã quy định có thể truy tố, xét xử vắng mặt đối với bị can, bị cáo khi đang bị truy nã, đây là quy định rất mới, có thể nói từ trước đến nay chưa có tiền lệ ở Việt Nam.
Bởi vậy, quá trình tổ chức thực hiện quy định này cần phải có những hướng dẫn, có những quy định cụ thể để giảm thiểu đến mức thấp nhất việc truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo đã tử vong (do tai nạn, do tự tử hoặc do bệnh tật…) mà cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được hoặc trường hợp bị can bị cáo bị cản trở, bị trở ngại khách quan mà không thể tham gia tiến hành tố tụng được.
Ngoài ra, quy định mới này cũng xuất phát từ thực tiễn một số vụ án gần đây cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành truy tố, xét xử vắng mặt đối với các bị cáo đang bị truy nã. Những vụ án này Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chưa quy định cụ thể nhưng có chỉ đạo từ Trung ương, từ những chỉ đạo về hoạt động tư pháp mà cơ quan tiến hành tố tụng đã tiến hành truy tố, xét xử vắng mặt đối với một số bị cáo trong một số vụ án về tham nhũng chức vụ. Việc xét xử như vậy là đúng với chính sách nhưng pháp luật còn chưa quy định đầy đủ, đó là lý do mà Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi lần này.
Cũng theo Luật sư, việc truy tố, xét xử vắng mặt đối với bị can đang bị truy nã cần phải được tổ chức thực hiện một cách thận trọng và vận dụng trong một khoảng thời gian nhất định của lịch sử. Bên cạnh đó, cũng cần xem xét, cân nhắc sao cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo quyền gỡ tội, quyền bào chữa của người bị buộc tội, đảm bảo trách nhiệm của nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hiến pháp và pháp luật và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Khi nào được điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo?
Liên quan đến vấn đề trên, tại Thông tư liên tịch 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/7/2025 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can bị cáo. Điều 4 của Thông tư đã có quy định cụ thể các trường hợp, điều kiện ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng và xét xử vắng mặt bị can, bị cáo.
Theo đó, cơ quan điều tra áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 233, Viện Kiểm sát áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 243, Tòa án áp dụng quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự để điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, bị can, bị cáo trốn hoặc không biết bị can, bị cáo ở đâu và việc truy nã không có kết quả
Bị can, bị cáo trốn là trường hợp bị can, bị cáo cố ý trốn tránh, vắng mặt, cơ quan tiến hành tố tụng không giao được giấy triệu tập cho bị can, bị cáo hoặc đã giao giấy triệu tập nhưng bị can, bị cáo không chấp hành, trình diện theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc che giấu tung tích, nơi cư trú, nơi làm việc, nơi học tập nhằm không chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Không biết bị can, bị cáo ở đâu là trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tiến hành các hoạt động xác minh theo quy định pháp luật nhưng không xác định được bị can, bị cáo ở đâu.
Việc truy nã không có kết quả là trường hợp Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã bị can, bị cáo, áp dụng các biện pháp xác minh, truy bắt bị can, bị cáo nhưng đến khi hết thời hạn điều tra, hết thời hạn truy tố, hết thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc hết thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Thông tư liên tịch này mà bị can, bị cáo không đầu thú hoặc không bắt được bị can, bị cáo.
Thứ hai, bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
Bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp có căn cứ xác định bị can, bị cáo đã xuất cảnh nhưng chưa có thông tin nhập cảnh và không xác định được nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, không triệu tập, dẫn độ được bị can, bị cáo để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ xác định nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, đã triệu tập, đã yêu cầu dẫn độ nhưng không thể đưa được bị can, bị cáo trở về Việt Nam để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Cũng theo Thông tư liên tịch 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo trong các trường hợp quy định nêu trên khi có đủ các điều kiện sau:
– Đã thu thập đủ chứng cứ, tài liệu để làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo đã thực hiện tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
– Bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo quy định tại các Điều 16, 291, 351 và Chương V của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án phải thông báo về quyền nhờ người bào chữa cho người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo để họ nhờ người bào chữa.
Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo không nhờ người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nguồn: Trần Nguyên – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam
Để lại một bình luận