Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

(LSVN) – Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta không những chỉ tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn phải tuân theo các nguyên tắc khác như nguyên tắc công bằng, nguyên tắc dân chủ,… Chính sách hình sự chính là sự thể hiện của tính nhân đạo sâu sắc, đó là trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo người thực hiện hành vi phạm tội. Thông qua hình phạt, nhà nước không chỉ vừa nhằm trừng trị, răn đe kết hợp với giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội mà qua đó còn giáo dục người khác có ý thức tuân thủ pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một trong những chính sách hình sự, là chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam. Đây chính là cơ sở pháp lý nền tảng có liên quan đến nhiều chế định khác mà căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để các cơ quan tư pháp hình sự tham gia vào quá trình áp dụng pháp luật trong giai đoạn chấp hành hình phạt tù.

Hiểu thế nào là tha tù trước thời hạn có điều kiện?

Hiện nay, vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm của biện pháp này, tuy nhiên khái niệm được hiểu một cách phổ biến và nhiều người chấp nhận nhất là khái niệm được quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự (BLHS) về tha tù trước thời hạn có điều kiện như sau: “Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của BLHS, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Dựa vào khái niệm trên, có thể hiểu tha thù trước thời hạn có điều kiện cho phép người đang chấp hành án phạt tù kết thúc việc chấp hành án phạt tù đó tại cơ sở giam giữ sớm hơn thời hạn trên thực tế và được chuyển sang sự quản lý, giám sát tại cộng đồng trong khoảng thời gian thử thách, khi và chỉ khi họ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện còn gặp một số vướng mắc, bất cập như sau:

Thứ nhất, BLHS chưa quy định đầy đủ về điều kiện “phạm tội lần đầu” tại Điều 66 và Điều 106

Theo quy định tại Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND Tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn thì “Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện thì được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “Trước đó chưa phạm tội lần nào; trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”.

Như vậy, có thể thấy sự khác biệt trong quy định giữa hai văn bản nêu trên. Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP đã chỉ rõ thêm ba trường hợp được hiểu là phạm tội lần đầu, mở rộng phạm vi áp dụng cho tình tiết “phạm tội lần đầu” khi xem xét các vụ án hình sự, trong đó có trường hợp “trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”.

Thứ hai, về thời điểm tính thời gian thử thách

Khoản 3 Điều 66 BLHS Việt Nam quy định: “Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù”.

Tại mục 2 Công văn số 170/TANDTC-PC ngày 01/8/2018 của TAND Tối cao về việc thực hiện quy định của BLHS quy định: “Thời điểm có hiệu lực pháp luật của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là sau 15 ngày kể từ ngày ký, ban hành và thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách kể từ ngày Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật“.

Điều 59 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: “Ngay sau khi quyết định tha tù trước thời hạn có hiệu lực pháp luật, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện và tha phạm nhân. Thời gian thử thách được tính từ ngày quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật”.

Thông tư số 12/2018/TT-BCA ngày 07/5/2018 của Bộ Công an quy định: “Ngay sau khi nhận được quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, cơ sở giam giữ tổ chức công bố quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện của Toà án cho phạm nhân đang chấp hành án biết và tiến hành tha phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện”.

BLHS 2015 chỉ quy định thời gian thử thách là “bằng thời gian còn lại của hình phạt tù” nhưng không nêu rõ thời điểm bắt đầu tính. Trong khi đó: Công văn 170/TANDTC-PC ngày 01/8/2018 của TAND Tối cao cho rằng thời điểm tính là từ ngày Quyết định có hiệu lực pháp luật. Nhưng trong thực tế thi hành án, phạm nhân có thể được tha ra khỏi trại giam vào ngày muộn hơn, khiến việc xác định mốc thời gian thực tế trở nên khó khăn. Tình trạng này dễ dẫn đến thiếu chính xác khi xác định vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách, hoặc khi xét chấm dứt thời gian thử thách. Do đó, việc xác định thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách chưa có sự thống nhất với nhau, dẫn đến việc hiểu và áp dụng quy định này của các cơ quan pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện. Gây khó khăn cho cơ sở giam giữ trong việc tiến hành tha người được tha tù trước thời hạn trên thực tế. Thêm vào đó, hiện nay không hề có bất cứ một quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật nào có quy định rõ ràng về vấn đề thời điểm có hiệu lực của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện. Điều này hiện nay được ghi nhận trong một văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ của TAND Tối cao cho hệ thống Tòa án.

Thứ ba, BLHS quy định về việc người chấp hành án phải chấp hành hình phạt còn lại nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách. Vấn đề được đặt ra là “Phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành” ở đây hiểu như thế nào? Có thể trừ đi khoảng thời gian người chấp hành án chấp hành bản án ngoài cộng đồng vào hình phạt tù còn lại chưa chấp nhận hay không?

Để giải quyết những bất cập nêu trên, chúng tôi kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy phạm của pháp luật có liên quan đến tha tù trước thời hạn có điều kiện. Theo đó, chúng tôi kiến nghị:

Thứ nhất, hoàn thiện và thống nhất quy định về điều kiện “phạm tội lần đầu”. Hướng dẫn lại điểm d khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Từ:

Điều 2. Điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

2. Phạm tội lần đầu.

Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;

b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;

c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.

Thành:

Điều 2. Điều kiện tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

2. Phạm tội lần đầu.

Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;

b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;

c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Thứ hai, thống nhất quy định về thời điểm tính thời gian thử thách. Đối với việc công bố quyết định và tổ chức tha phạm nhân có quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, việc minh định rõ thời điểm tính thời gian thử thách là ngày công bố quyết định tha tù và phạm nhân thực sự rời khỏi trại giam sẽ đảm bảo tính khả thi, dễ áp dụng trong thực tế; giúp xác định rõ trách nhiệm giám sát người được tha tù tại địa phương; tránh khiếu nại, khiếu kiện không cần thiết do cách hiểu khác nhau. Cần thống nhất quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật như sau: “Ngay sau khi nhận được quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải niêm yết danh sách phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện tại cơ sở giam giữ phạm nhân. Ngay sau khi quyết định tha tù trước thời hạn có hiệu lực pháp luật, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện và tha phạm nhân. Thời gian thử thách được tính từ ngày quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật”.

Thứ ba, đề xuất bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 66 BLHS 2015: Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 3 Điều 66 BLHS năm 2015 “thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù”. Hơn nữa, tha tù trước thời hạn có điều kiện là chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, ý thức tuân thủ theo pháp luật của công dân. Trong suốt quá trình thử thách buộc người được tha tù trước thời hạn phải thể hiện được sự tiến bộ thông qua việc chấp hành chấp hành các nghĩa vụ của mình đã cam kết, nếu vi phạm các nghĩa vụ ở bất kể thời điểm nào trong thời gian thử thách thì đều phải chấp hành hình phạt tù còn lại chưa chấp hành, chính là phần thời gian thử thách ghi trong quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện của Tòa án. Tuy nhiên, để tránh những vướng mắc và tạo ra cách hiểu khác nhau của các chủ thể có thẩm quyền, đề xuất bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 66 BLHS 2015 như sau: “Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt còn lại chưa chấp hành. Phần hình phạt tù chưa chấp hành bằng với thời gian thử thách quy định tại Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện”.

Xuất phát từ thực tiễn các cơ quan tố tụng khi áp dụng quy định pháp luật, chúng tôi nhận thấy việc đề xuất việc sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm “phạm tội lần đầu” và “thời điểm bắt đầu thời gian thử thách khi tha tù trước thời hạn có điều kiện” là cần thiết, đúng đắn và có tính cấp thiết. Những đề xuất này không chỉ làm rõ hành lang pháp lý mà còn góp phần tăng cường hiệu quả cải cách tư pháp, thể hiện sự nhất quán trong chính sách hình sự và nhân đạo của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn: HOÀNG THÙY LINH – Tòa án Quân sự Quân khu 7 – TRẦN QUÝ – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan