(LSVN) – Yếu tố “nguy hiểm cho xã hội” là tiêu chí mang tính bản chất của tội phạm. Khi Nhà nước nhận thấy một hành vi không còn nguy hiểm đến mức cần áp dụng biện pháp hình sự, thì việc sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ quy định về tội danh đó và các quy định của pháp luật có liên quan là điều cần thiết.
Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự.
Như vậy, yếu tố “nguy hiểm cho xã hội” là tiêu chí mang tính bản chất của tội phạm. Khi Nhà nước nhận thấy một hành vi không còn nguy hiểm đến mức cần áp dụng biện pháp hình sự, thì việc sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ quy định về tội danh đó và các quy định của pháp luật có liên quan là điều cần thiết.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội nên nó cũng có tính lịch sử, vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, do yêu cầu của xã hội và các quy định của pháp luật thì hành vi đó cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự, nhưng sau đó, khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng của mình để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội thì tình hình xã hội đã thay đổi, Nhà nước thấy không cần phải xử lý người có hành vi phạm tội trước đó bằng biện pháp hình sự nữa. Sự chuyển biến của tình hình có thể là sự chuyển biến xảy ra ở tất cả các mặt của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, môi trường… và là nguyên nhân làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm nữa.
Ngoài ra, nếu sự chuyển biến của tình hình và tình hình đó tuy có liên quan đến tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng chưa được Nhà nước quy định thì người có hành vi phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp phạm tội khác. Sự thay đổi nhận thức xã hội hoặc tình hình thực tế chỉ trở thành căn cứ pháp lý khi được phản ánh trong văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc thi hành. Những văn bản này có thể là Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư của bộ, cơ quan ngang bộ…
Đối với trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội khi có sự thay đổi chính sách, pháp luật, tại khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) quy định người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá.
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những nội dung thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước. Biện pháp này được quy định và áp dụng trong một số trường hợp phạm tội nếu xét thấy không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không cần buộc họ phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt mà vẫn đảm bảo được yêu cầu phòng và chống tội phạm, vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội.
Hiểu đơn giản miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp đủ căn cứ xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, bị can/ bị cáo có vi phạm pháp luật, đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng vì một số lý do luật định, bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự. Người được miễn trách nhiệm hình sự là người có tội nên họ không có quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
Khác với miễn trách nhiệm hình sự, trường hợp được tòa tuyên không phạm tội (vô tội) được hiểu là trước đó, người bị đưa ra xét xử đã bị khởi tố, điều tra, truy tố về một tội nào đó nhưng khi xét xử, hội đồng xét xử thấy rằng hành vi của bị cáo không phạm tội nên tuyên bị cáo vô tội. Trường hợp này, người được tuyên vô tội có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Nếu Tòa án tuyên bị cáo không có tội thì thời hạn tạm giam mới là căn cứ để tính toán về mức bồi thường thiệt hại do bị giam oan sai. Tuy nhiên, đối với trường hợp bị can, bị cáo được Tòa án miễn trách nhiệm hình sự thì thời hạn tạm giam này sẽ không được tính toán để bù trừ, bồi thường.
Như vậy, hành vi đã thực hiện nay không còn bị coi là nguy hiểm cho xã hội do sự thay đổi chính sách, pháp luật không đồng nghĩa với việc người thực hiện hành vi đó được xác định là không có tội. Trong trường hợp này, việc áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) chỉ thể hiện chính sách hình sự mang tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, nhằm miễn áp dụng biện pháp xử lý hình sự, chứ không phải là sự khẳng định người đó vô tội hay hành vi của họ không cấu thành tội phạm tại thời điểm thực hiện.
Nguồn: PHẠM HIẾU TRUNG – Viện Kiểm sát quân sự Khu vực 43, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam
Để lại một bình luận