Những nguyên tắc tố tụng hình sự và vấn đề pháp điển hóa

(LSVN) – Nguyên tắc tố tụng hình sự chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các quy phạm tố tụng hình sự bởi vì nó thể hiện bản chất của tố tụng hình sự và tính dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự. Bài viết phân tích những nguyên tắc tố tụng hình sự dưới góc độ pháp điển hóa để từ đó kiến nghị hoàn thiện chế định nguyên tắc tố tụng hình sự.

1. Đặt vấn đề

Nguyên tắc tố tụng hình sự là nguyên lý, là cơ sở cho mọi hoạt động tố tụng hình sự, vì thế nó cần được ghi nhận trong các quy phạm tố tụng hình sự mang tính chung nhất. Nguyên tắc tố tụng hình sự là kết quả của ý chí người làm luật dựa trên quy luật khách quan của sự phát triển của xã hội. Những nguyên tắc tố tụng hình sự được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật Tổ chức toà án nhân dân và Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguyên tắc tố tụng hình sự là quy định mang tính quy phạm, được ghi nhận trong luật và là cơ sở đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự. Hay nói một cách khác đây là những quy định cơ bản, chung nhất, mang tính chỉ đạo được ghi nhận trong các quy phạm chung của pháp luật tố tụng hình sự. Rõ ràng nguyên tắc tố tụng hình sự được chế định một cách khách quan, trong đó thể hiện bản chất nhân đạo, dân chủ của hoạt động tố tụng hình sự.

Những nguyên tắc tố tụng hình sự bảo đảm cho việc tiến hành các vụ án hình sự theo một thủ tục tố tụng thống nhất. Nhưng không phải tất cả những nguyên tắc tố tụng hình sự để thể hiện ở mức độ như nhau trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. Sự thể hiện có phụ thuộc vào nhiều tình tiết khác nhau như nhiệm vụ của từng giai đoạn tố tụng, vai trò của cơ quan và những người có thẩm quyền trong việc tiến hành giải quyết vụ án, sự đặc biệt của giai đoạn tố tụng đó, ý nghĩa của việc tham gia tố tụng hình sự của cá nhân và đại diện cơ quan, tổ chức vào các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Sự thể hiện đầy đủ hơn cả là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Những nguyên tắc tố tụng hình sự mặc dù được thể hiện trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, nhưng không có nghĩa là chúng bị tách rời nhau, mà ngược lại, những nguyên tắc đó có quan hệ mật thiết như từng mắt xích trong một khâu thống nhất.

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là cơ sở cho mọi đạo luật, vì vậy trong Hiến pháp không ghi nhận tất cả những nguyên tắc tố tụng hình sự mà chỉ ghi nhận những nguyên tắc mang ý nghĩa chính trị đặc biệt, chung nhất. Những nguyên tắc còn lại mang tính chức năng nhiều hơn và thể hiện nội dung của tố tụng hình sự, được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Những nguyên tắc đó không mâu thuẫn với nhau mà quan hệ chặt chẽ và bổ sung lẫn nhau. Tất cả những nguyên tắc đó hợp thành hệ thống nguyên tắc tố tụng hình sự, là cơ sở cho mọi hoạt động tố tụng hình sự.

Ý nghĩa của những nguyên tắc tố tụng hình sự thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó thể hiện tính dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự; Thứ hai, nó là cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự; Thứ ba, những nguyên tắc tố tụng hình sự là cơ sở cho việc giải thích và áp dụng các quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự; Thứ tư, tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc tụng hình sự là điều kiện cần thiết và bắt buộc để đạt được mục đích, nhiệm vụ của tố tụng hình sự.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Thực trạng quy định của pháp luật về những nguyên tắc tố tụng hình sự

2.1. Quy định của pháp luật về những nguyên tắc tố tụng hình sự trước năm 1988

Trước năm 1988, quy định của pháp luật về tố tụng hình sự được quy định rải rác ở Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong khi chưa có một bộ luật hoàn chỉnh về tố tụng hình sự, năm 1976 Tòa án nhân dân tối cao soạn thảo và ban hành Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự bao gồm các văn bản về tố tụng hình sự được ban hành đến ngày 31/12/1974 và được chia thành 11 chương, trong đó có Chương 1 – Những nguyên tắc chung về tố tụng hình sự.

Những nguyên tắc tố tụng hình sự được tập hợp chủ yếu từ những quy định của Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và cụ thể như sau:

– Nhiệm vụ của các cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân.

– Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

– Bảo đảm quyền tự do thân thể và bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.

– Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.

– Tiếng nói, chữ viết dùng trong việc kiện.

– Các Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

– Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

– Viện kiểm sát nhân dân làm nhiệm vụ của mình một cách độc lập.

– Nguyên tắc tập thể xét xử và quyết định theo đa số.

– Quyền xin thay đổi thẩm phán và hội thẩm nhân dân.

– Việc xét xử phải công khai.

– Việc mở phiên tòa có thể ở ngoài trụ sở của Tòa án.

– Tòa án nhân dân thực hiện hai cấp xét xử.

– Các bản án tử hình phải được Hội đồng toàn thể thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao duyệt lại trước khi thi hành.

– Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì được xét lại[1].

Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI ngày 18/12/1980 đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Tiếp theo đó vào năm 1981 Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. So với quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, những nguyên tắc tố tụng hình sự nêu trong Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự chưa được đầy đủ.

2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về những nguyên tắc tố tụng hình sự

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được pháp điển hóa trên cơ sở quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, trong đó có Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự của Tòa án nhân dân tối cao và các quy định nội bộ của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (Bộ Công an). Đặc biệt Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá trình soạn thảo tham khảo rất nhiều quy định của Bộ luật Tố tụng Liên bang Nga và góp ý của chuyên gia Nga. Ban soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự bao gồm lãnh đạo của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có một chương riêng quy định về những nguyên tắc tố tụng hình sự. Đó là chương I với tiêu đề “Những nguyên tắc cơ bản”. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, chương này đã có tiêu đề  “Những quy định cơ bản”. Tên chương này là tham khảo tên chương 1 của Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga. Giữa hình thức và nội dung của chương 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có nhiều điểm chưa phù hợp, bởi vì:

Thứ nhất, nếu quy định ở chương này những nguyên tắc cơ bản thì ngoài những nguyên tắc cơ bản phải còn có những nguyên tắc khác. Nhưng những nguyên tắc khác đó chưa được quy định rõ trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988;

Thứ hai, là không phải tất cả các quy định trong chương này đều là nguyên tắc tố tụng hình sự. Điều đó có thể thấy rõ trong các quy định về nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự (Điều 1), hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự (Điều 26).

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, những nguyên tắc tố tụng hình sự bao gồm:

– Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 2).

– Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 3).

– Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 4).

– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 5).

– Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 6).

– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 7).

– Việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân (Điều 8).

– Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 9).

– Không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án (Điều 10).

– Xác định sự thật của vụ án (Điều 11).

– Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 12).

– Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 13).

– Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng hình sự (Điều 14).

– Phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội (Điều 15).

– Thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 16) .

– Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17).

– Toà án xét xử tập thể (Điều 18).

– Xét xử công khai (Điều 19).

– Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 20).

– Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 21).

– Giám đốc việc xét xử (Điều 22).

– Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 23).

– Bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 24).

– Bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án (Điều 25)[2].

2.3. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về những nguyên tắc tố tụng hình sự

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có một chương riêng quy định về những nguyên tắc cơ bản ở 24 điều luật. Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã tách riêng hai điều luật về nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự thành một chương riêng (Chương I) và những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Chương II của Bộ luật này. Trong tổng số 30 điều luật được quy định tại chương II “Những nguyên tắc cơ bản” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì chỉ giữ  nguyên 4 điều luật của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, sửa đổi, bổ sung 21 điều luật (và quy định thành 23 điều luật) và bổ sung thêm 3 điều luật mới.

Những nguyên tắc theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 bao gồm:

– Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3).

– Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4).

– Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5).

– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6).

– Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7).

– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8).

– Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9).

– Xác định sự thật của vụ án (Điều 10).

– Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11).

– Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 12).

– Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 13).

– Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14).

– Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 15).

– Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16).

– Toà án xét xử tập thể (Điều 17).

– Xét xử công khai (Điều 18).

– Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 19).

– Thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20).

– Giám đốc việc xét xử (Điều 21).

– Bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án (Điều 22).

– Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 23).

– Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 24).

– Trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 25).

– Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 26).

– Phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội (Điều 27).

– Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28).

– Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29).

– Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30).

– Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31).

– Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 32)[3].

2.4. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về những nguyên tắc tố tụng hình sự

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng ta; thể chế hóa Hiến pháp năm 2013; tăng cường trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; kế thừa và pháp huy những mặt tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

Chương II Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 – những nguyên tắc cơ bản đã thể hiện được tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với cải cách tư pháp, là tư tưởng về dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự, bảo đảm công bằng trong quá trình xét xử vụ án hình sự.

Trong tổng số 30 điều luật được quy định tại chương II “Những nguyên tắc cơ bản” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì chỉ giữ lại 27 điều luật để sửa đổi, bổ sung và quy định thành 25 điều luật (ghép Điều 29 với Điều 30 thành Điều 31 mới và ghép Điều 21 với Điều 32 thành Điều 33 mới) và loại bỏ những quy định không phải là nguyên tắc ra khỏi chương này, cụ thể là các điều 25, 26 và 27.

Như vậy, Chương II Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bao gồm 27 điều, từ Điều 7 đến Điều 33. Nhìn chung, những nguyên tắc cơ bản quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn được kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để sửa đổi thành 25 điều luật và bổ sung 02 điều luật mới (Điều 14 và Điều 19 BLTTHS năm 2015)[4]. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định 4 nguyên tắc hoàn toàn mới như nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13); nguyên tắc không ai bị xét xử hai lần vì một tội phạm (Điều 14); nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25); nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26)[5].

Những nguyên tắc theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bao gồm:

– Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 7).

– Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Điều 8).

– Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 9).

– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 10).

– Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân (Điều 11).

– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân (Điều 12).

– Suy đoán vô tội (Điều 13).

– Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14).

– Xác định sự thật của vụ án (Điều 15).

– Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 16).

– Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 17).

– Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 18).

– Tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra (Điều 19).

– Trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 20).

– Bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng (Điều 21).

– Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 22).

– Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 23).

– Toà án xét xử tập thể (Điều 24).

– Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25).

– Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26).

– Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Điều 27).

– Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án (Điều 28).

– Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 29).

– Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 30).

– Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 31).

– Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 32).

– Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự (Điều 33).[6]

Việc sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã cho thấy sự chuyển hướng tích cực của tố tụng hình sự nước ta và cụ thể hóa các nguyên tắc đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, cũng còn những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, thảo luận và cần được thực tiễn kiểm nghiệm.

3. Vấn đề pháp điển hóa

Thuật ngữ pháp điển (codification) có gốc là một từ latin “Codex” – là sách đóng gáy – một phát minh của người La Mã nhằm thay thế cho sách ống cuộn trước đó. Như vậy, pháp điển từ thời cổ đại có nghĩa là tập hợp các văn bản pháp lý có cùng một chủ đề dưới hình thức một “Codex”- cuốn sách. Thuật ngữ pháp điển hoá cũng không còn xa lạ trong cả lý luận và thực tiễn pháp lý quốc tế. Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “pháp điển” là một từ Việt cũ, một danh từ dùng để chỉ một bộ luật, tương tự như chữ “Code” trong tiếng Anh. Bộ luật khác với các văn bản pháp luật khác về quy mô, tính toàn diện, tính hệ thống, tính ổn định và giá trị pháp lý cao của nó. Vì vậy, việc có được những bộ pháp điển lớn, hoàn chỉnh để có thể sử dụng lâu dài, ổn định là mong muốn của nhiều người, nhiều quốc gia. Như vậy, “pháp điển” cần được hiểu là bộ luật, hàm chứa trong đó hệ thống các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ cụ thể.

Theo Từ điển luật học, pháp điển hóa là “Hình thức hệ thống hoá pháp luật trong đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định luật, các văn bản quy phạm pháp luật trong ngành luật theo trình tự nhất định, loại bỏ những mâu thuẫn chồng chéo, các quy định lỗi thời và bổ sung những quy định mới từ đó ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy phạm pháp luật cũ mà điển hình là bộ luật – pháp điển”[7].

Hệ thống pháp luật của mỗi nước là khác nhau nên khái niệm pháp điển trong hệ thống pháp luật và các hình thức tiến hành pháp điển ở nước ta và trên thế giới cũng còn có các quan niệm khác nhau. Nhưng nhìn chung về cơ bản có thể chia thành hai hình thức pháp điển chính, đó là: Pháp điển về mặt nội dung và pháp điển về mặt hình thức.

Pháp điển về mặt nội dung (substantive condification) là cách hiểu về pháp điển hóa mang tính truyền thống. Theo đó, pháp điển hóa là việc xây dựng một bộ luật trên cơ sở tập hợp các quy định hiện hành, loại bỏ các quy định không phù hợp, bổ sung, dự liệu những quy định mới để đáp ứng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội đang phát triển.

Pháp điển hình thức (formal condification) là tập hợp, sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật thành các bộ pháp điển theo từng chủ đề với những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết (chủ yếu về mặt kỹ thuật) nhằm làm cho các quy định này phù hợp với nhau nhưng vẫn bảo đảm trật tự pháp lý của các quy định[8].

Về công tác pháp điển của Việt Nam, tại Điều 2 Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật năm 2012 quy định: “Pháp điển là việc cơ quan nhà nước rà soát, tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đang còn hiệu lực trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, trừ Hiến pháp, để xây dựng Bộ pháp điển”[9]. Như vậy, hoạt động pháp điển theo quy định của Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật năm 2012  là pháp điển về hình thức, theo đó cơ quan có thẩm quyền tập hợp, sắp xếp đầy đủ các quy phạm pháp luật từ cấp thông tư trở lên đang còn hiệu lực vào Bộ pháp điển theo trật tự hợp lý và thường xuyên, kịp thời cập nhật quy phạm pháp luật mới vào Bộ pháp điển hoặc loại bỏ quy phạm pháp luật hết hiệu lực khỏi Bộ pháp điển mà chưa đặt ra việc sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật thay thế hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

Quá trình pháp điển hóa các quy phạm pháp luật về những nguyên tắc tố tụng hình sự được tiến hành vào những năm 1988, 2003 và 2015. Trước đó những quy phạm pháp luật về những nguyên tắc tố tụng hình sự được tập hợp trong Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự do Tòa án nhân dân tối cao xuất bản năm 1976.

Việc xác định những quy định nào là nguyên tắc và nội dung của nó bao gồm những gì là vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Sự ghi nhận nguyên tắc này hay nguyên tắc khác trong pháp luật tố tụng hình sự là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước về nền tư pháp, là đòi hỏi của xã hội về hệ thống tư pháp của mỗi nước. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng “Sự ghi nhận nguyên tắc này hay nguyên tắc khác trong pháp luật tố tụng hình sự phản ánh hệ thống các quan điểm về nền tư pháp, đòi hỏi chung của xã hội về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp”[10].

Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới, tác giả có nhận xét về cách thể hiện hay nói cách khác là việc quy định các nguyên tắc tố tụng hình sự như sau:

– Một số nguyên tắc liên quan đến bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong tố tụng hình sự đều được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới.

– Một số nguyên tắc tố tụng hình sự mang tính đặc thù phụ thuộc vào hình thức tố tụng hình sự, hệ thống pháp luật, hệ thống toà án của từng nước. Điều đó thường thấy trong pháp luật tố tụng hình sự của các nước cùng hệ thống pháp luật, toà án và cùng hình thức, thủ tục tố tụng hình sự thì có nhiều nguyên tắc tương tự nhau, ví dụ các nước theo hệ thống án lệ; các nước theo hệ thống châu Âu lục địa; các nước theo hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây.

– Các nguyên tắc tố tụng hình sự được đa số các nước ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng có nước được ghi nhận trong Hiến pháp. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự có nước quy định thành chương riêng trong phần chung, nhưng cũng có nước quy định trong các phần cụ thể của từng giai đoạn tố tụng hình sự. Số lượng nguyên tắc thường không nhiều.

Những nguyên tắc tố tụng hình sự được hình thành và phát triển xuất phát từ đòi hỏi khách quan của xã hội, của yêu cần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người và là điều cần thiết không thể thiếu của hoạt động tố tụng hình sự. Việc xác định đúng các nguyên tắc tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng, định hướng quá trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự.

Các nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013 đặt ra nhiều yêu cầu mới, quan trọng, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Những yêu cầu này đã và sẽ được pháp điển hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

Một vấn đề đặt ra trong các điều luật quy định tại chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bao gồm đầy đủ các nguyên tắc tố tụng hình sự hay chưa, có cần thêm bớt nguyên tắc nào hay không? Từ Điều 7 đến Điều 33 trong chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có phải tất cả đều là nguyên tắc cơ bản hay không mặc dù tên của chương II là “Những nguyên tắc cơ bản”. Nếu lấy tiêu chí nguyên tắc tố tụng hình sự phải là những quy định cơ bản, chung nhất, mang tính chỉ đạo thì một số quy định trong chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không phải là nguyên tắc tố tụng hình sự mà đấy chỉ là những quy định cơ bản trong phần những quy định chung hoặc một số điều luật cần phải sửa đổi, bổ sung tên gọi hoặc nội dung của điều luật cho phù hợp với yêu cầu về học thuật.

Những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có những hạn chế chủ yếu là số lượng nguyên tắc cơ bản khá lớn. Một số nguyên tắc còn bất cập, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng. Nhiều quy định không phải là nguyên tắc cơ bản hoặc không mang tầm nguyên tắc mà chỉ khái quát về chức năng, thẩm quyền hoặc trách nhiệm cơ quan, người tiến hành tố tụng trong một giai đoạn tố tụng nhất định. Nội dung của một số nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, không phù hợp với với tính chất là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo các hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, cần đưa những quy định đó về đúng chỗ, sắp xếp lại cho hợp lý và đưa khỏi chương II của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 những nguyên tắc không còn phù hợp. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn thiếu một số nguyên tắc tố tụng hình sự đã được thừa nhận ở nhiều nước trên thế giới.

Trước hết tác giả thấy rằng cần xem xét có nên tiếp tục quy định một số điều luật trong chương “Những nguyên tắc cơ bản” hay không?

Tác giả cho rằng khi chưa có Luật Thi hành án hình sự thì quy định một điều trong Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án là phù hợp. Hiện nay, chúng ta đã có Luật Thi hành án hình sự thì Điều 28 “Bảo bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án” trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là không cần thiết. Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án được quy định cụ thể trong Luật Thi hành án hình sự.

Một vấn đề được đặt ra là có coi việc bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc của tố tụng hình sự hay không? Tuy nhiên vào thời điểm thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, việc quy định về bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là phù hợp, làm cơ sở cho việc ban hành các văn bản khác có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 một nguyên tắc về bồi thường cho người bị oan sẽ có tác dụng nhắc nhở đối với người tiến hành tố tụng hình sự cẩn trọng hơn trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục quy định một nguyên tắc về bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 31). Thực tế cho thấy, quy định về bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự chỉ mới được quy định mang tính nguyên tắc mà không được và không thể quy định trong chương cụ thể của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Vấn đề bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự đã được quy định cụ thể trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Vì vậy, theo tác giả, Điều 31 sẽ không còn phù hợp quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nữa khi đã có Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Trong khi đó theo tác giả cần quy định một nguyên tắc minh oan trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 33 “Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự”, đây là những điều luật hoặc đã được quy định ở các văn bản pháp luật khác hoặc sẽ quy định ở các văn bản pháp luật khác thì phù hợp hơn vì nếu quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự không thể hiện được quan hệ tố tụng hình sự mà chỉ là những quy phạm rất chung. Trong khi đó Điều 21 “Giám đốc việc xét xử” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 lại không được thể hiện rõ trong Điều 33 “Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các điều luật còn lại trong chương II “Những nguyên tắc cơ bản” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần phải xem xét để sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp về mặt lý luận và thực tiễn. Nội dung của từng nguyên tắc chưa được thể hiện một cách khoa học, một điều luật có phải thể hiện một nguyên tắc hay nhiều điều luật thể hiện một nguyên tắc và ngược lại một điều luật lại thể hiện nhiều nguyên tắc. Trong một điều luật nội dung của nó đã phù hợp với tên của điều luật chưa? Một số điều luật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thật sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tương thích với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa? Đây là vấn đề cần tiếp tục làm rõ khi nghiên cứu từng nguyên tắc tố tụng hình sự.

Nói tóm lại tác giả kiến nghị hướng hoàn thiện hệ thống nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam như sau:

1. Những nguyên tắc tố tụng hình sự sẽ được quy định trong một chương của Bộ luật Tố tụng hình sự với tên gọi ” Những nguyên tắc tố tụng hình sự”.

2. Không quy định trong chương ” Những nguyên tắc tố tụng hình sự” các Điều 28, 31, 33 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mà quy định ở các văn bản pháp luật khác phù hợp hơn.

3. Các điều còn lại của chương II Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và tính hợp hiến, tính đồng bộ, thống nhất, tính tương thích.

[1] Tòa án nhân dân tối cao, Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự. Năm 1976.

[2] Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.

[3] Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

[4] Xem: PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), “So sánh Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2016.

[5] Xem: PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình, sđd tr.58.

[6] Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách khoa – Nxb. Tư pháp,năm 2006,  tr. 605.

[8] Nhiều tác giả, Một số vấn đề lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Hồng Đức, Năm 2017, tr. 392.

[9] Pháp lệnh Pháp điển hệ thống pháp luật năm 2012.[10] PGS, TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, tr. 55.

Nguồn: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN – Trường Đại học Thành Đông – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan