(LSVN) – Thể chế trong bài viết là tiếp cận từ giác độ xã hội, giác độ hệ thống chính trị. Nó bao hàm chủ trương, quyết sách của Đảng, các quy định pháp luật của Nhà nước và các cải cách của các thiết chế cộng đồng tự quản (các tổ chức chính trị – xã hội được Đảng, Nhà nước giao một số nhiệm vụ). Bài viết đề cập đến tính khoa học và cách mạng của cải cách thể chế hiện nay ở Việt Nam.
Năm 2024 và 2025 có thể được coi là năm khởi đầu của công cuộc cải cách mới, căn bản, từ sau Đổi mới (1986). Tầm mức của cải cách lần này được coi là đưa dân tộc vào một kỷ nguyên mới(1). Sức tác động của cải cách tác động tới xã hội được Đảng và Nhà nước xác định là thay đổi trăm năm (2). Cải cách lần này có những nội dung tác động tới căn bản thể chế, tác động tới luật pháp căn bản, như thay đổi hệ thống hành chính từ ba cấp ở địa phương, nay chỉ còn hai cấp. Như thế Hiến pháp cần sửa và đã sửa. Một trong những phép thử qua các chủ trương và thực tiễn cải cách đối với nhân dân và dư luận xã hội là mức độ của sự đồng thuận. Cụ thể, nhân dân ta hầu như đồng tình, hứng khởi, đón nhận các chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ những yếu tố cảm nhận với chính quyền như sự tinh gọn, đến sự đồng thuận những vấn đề không dễ dàng trong tâm lý cộng đồng. Đó là sự mở dộng địa dư, thay đổi tên địa phương (tỉnh), hay mất đi (huyện, xã) là các tên gọi vốn đã có từ hàng nhiều năm, có khi hàng trăm năm. Nếu đa số nhân dân không chờ đợi sự thay đổi (muốn giảm sự phiền hà, tầng nấc như lâu nay), không thấy ngay cái tích cực từ chủ trương và hành động trong phương thức quản trị đất nước thì làm sao có thể đồng thuận mạnh mẽ như vậy được?
Thể chế trong bài viết là tiếp cận từ giác độ xã hội, giác độ hệ thống chính trị. Nó bao hàm chủ trương, quyết sách của Đảng, các quy định pháp luật của Nhà nước và các cải cách của các thiết chế cộng đồng tự quản (các tổ chức chính trị – xã hội được Đảng, Nhà nước giao một số nhiệm cụ). Bài viết đề cập mặt khoa học và cách mạng của cải cách và phân tích theo hướng này.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Về tính khoa học của cải cách
Quản trị nhà nước (bộ máy nhà nước) và quản trị xã hội của hệ thống chính trị là hiện tượng mang tính quy luật, phổ biến của các xã hội từ khi có nhà nước. Nó mang tính khách quan vì đã diễn ra một cách tất yếu, phổ biến, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, ý muốn cá biệt nào. Nó mang tính quy luật của các hiện tượng mang tính tự vạch đường để phát triển. Trong xã hội có nhà nước, theo thời gian loài người chứng kiến sự phát triển của các thiết chế xã hội, trong đó các nhà nước, của các đảng chính trị, các đoàn thể xuất hiện như một tiến trình của sự hoàn thiện. Các dân tộc có lúc thịnh suy, thăng trầm hay hưng thịnh là do sự nhận thức, nhận biết phải làm gì để không vi phạm quy luật và làm cho xã hội phát triển trong các mối quan hệ tương hỗ bên trong và bên ngoài. Các thiết chế xã hội khác với hệ sinh thái tự nhiên ở chỗ, chúng vừa có tính khách quan đồng thời đậm nét của dấu ấn chủ quan. Khách quan là sự vận động không phụ thuộc vào ý chí của con người. Nhưng các thiết chế đó hình thành khi nào (sớm hay muộn so với nhu cầu xã hội), cấu trúc ra sao, sự lựa chọn mô hình tổ chức, lựa chọn các tinh hoa xã hội như thế nào… đều thông qua các tác động chủ quan của con người mà có được. Nếu chúng ta quan sát nhiều biểu hiện trong xã hội hoặc các hành vi, hành động cụ thể ở một xã hội cho dù nó tích cực hay phản tiến bộ đều có yếu tố tất yếu và ngẫu nhiên. Chẳng hạn giao thông lộn xộn hay các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực đều có tính quy luật tiềm ẩn bên trong. Ta xét tính quy luật như sau: Một xã hội đang phát triển, hạ tầng xã hội còn lạc hậu, nhưng nhu cầu đi lại bùng phát từ cơ chế thị trường đang phát triển đã làm cho phương tiện đi lại gia tăng số lượng. Chúng vượt quá sức chịu đựng của hạ tầng, cộng với tâm lý con người từ xã hội nông nghiệp, chưa trải nghiệm về kỷ cương, trật tự trong giao thông thì va chạm, tại nạn, lộn xộn xã hội là không tránh khỏi. Vì đó là quy luật ở một xã hội đang phát triển, chưa hoàn thiện. Nó sẽ được sửa chữa theo lộ trình của phát triển hạ tầng xã hội và hoàn thiện nhận thức. Cái gì là quy luật mà con người nhận thức được nó và hành đồng đồng thuận với quy luật, vận dụng có lợi cho con người (xã hội, đất nước) thì đó là khoa học. Khoa học của nhận thức, hành vi và xây dựng các yếu tố động lực, đột biến như một quá trình thay đổi, ta thường gọi đó là các quá trình cải cách.
Vậy tính khoa học của cải cách thể chế hiện nay ở Việt Nam được phản ánh ở chỗ nào? Tư tưởng về cải cách thuộc về lý luận, ý chí và tinh thần. Nó hình thành trên cơ sở của thực tiễn xã hội cụ thể đang vận động và phát triển. Cải cách ở Việt Nam nếu muốn tạo sự thay đổi, chỉ có thể hình thành và phụng sự cho thực tiễn, từ thực tiễn Việt Nam. Theo tác giả, cải cách các mặt trong thể chế nước ta phải từ sự mong đợi, mong muốn (thậm chí đến mức bức xúc) của nhân dân, từ bối cảnh của sự cạnh tranh quốc tế để cho làm sao Việt Nam không rơi vào sự trì trệ, tụt hậu, rơi vào tình cảnh hay viễn cảnh bẫy thu nhập trung bình(3) là điều hết sức tránh. Những bất cập giữa yếu tố khách quan (như điều kiện tự nhiên vốn có) và sự phân bổ nguồn lực xã hội bất cập, thiếu tương thích đã và đang xuất hiện: nơi thì đang trên đà phát triển đầy xung lực nhưng thiếu dư địa (không gian, đất đai, nguồn nhân lực…) bởi giới hạn của địa giới hành chính, nhiều nơi khác thì lại “thừa” không gian, “thiếu” nguồn lực chất lượng… Sự cải cách thể chế hiện nay chính là tư duy khoa học từ thực tiễn để giải quyết các bất cập đó. Nếu chúng ta muốn thịnh vượng, muốn không rơi vào bẫy thu nhập trung mình, muốn đáp ứng nguyện vọng lâu nay của nhân dân thì phải có nhận thức phù hợp, phải vạch ra được lộ trình thúc đẩy quy luật. Nhận thức phù hợp đó chính là các quyết sách chính trị phù hơp, các quyết định pháp lý kịp thời thúc đẩy toàn xã hội hành động, trong đó trước hết là các thiết chế trong hệ thống (Đảng, Nhà nước, các đoàn thể).
Tính cách mạng của cải cách thể hiện như thế nào?
Xã hội luôn vận động, lúc nhanh, lúc chậm, lúc tuần tự, khi đột biết đó là sự thật khách quan, bình thường. Nhưng xã hội với vị thế các quốc gia trong cộng đồng thế giới thì tính chất, mức độ, nhịp điệu lại không bình thường. Nơi nhanh, nơi đủng đỉnh (thậm chí nhiều nơi còn tụt hậu do những hệ lụy, hệ quả của các xung đột). Nếu không muốn đủng đỉnh, không muốn tụt hậu, thì phải có nhận thức và hành động mang tính sáng tạo, đột biến và đồng bộ. Những ý tưởng trong chủ trương, chính sách và sự triển khai nhanh, kịp thời trong các đồng bộ cải cách hiện nay, theo tác giả, đã đủ yếu tố của một hiện tượng có tính cách mạng. Muốn tiến bộ vượt bậc phải đột phá, không thể tuần tự, đủng đỉnh; muốn tạo đột phá phải tạo sự đồng thuận cao, ở tầm ý chí xã hội và thể chế. Muốn thực thi các quyết sách, phải tạo động lực cho con người. Sự lựa chọn cho tinh, gọn, sự đáp ứng giữa lao động và thụ hưởng tương ứng phải thể hiện ở tầm quốc sách cũng là nhận thức có tính cách mạng…
Tính khoa học và cách mạng của cải cách thể chế hiện nay ở nước ta
Trong tiến trình vận động, phát triển xã hội thường xuất hiện sự không đồng đều. Nguyên nhân là do tính phức tạp, đa dạng của các điều kiện tự nhiên và các yếu tố chủ quan. Điều đó giải thích tại sao ở mỗi giai đoạn, các chủ thể quản trị xã hội, trước hết là thiết chế chính trị cầm quyền, như Đảng Cộng sản Việt Nam thường lựa chọn những vấn đề cơ bản, trọng yếu chi phối sự phát triển để ưu tiên xử lý và đinh hướng giải quyết, tạo hành lang phát triển. Nhưng nếu cứ tuần tự, chỉ lựa chọn vấn đề theo từng giai đoạn thì chưa đạt tới sự cải cách tổng thể, đồng bộ. Nghĩa là chưa mang tính cách mạng, chưa đạt tới sự cải cách mang tính thời cơ, vận hội, mang tính sắp xếp lại giang sơn(4).
Về cấu trúc các yếu tố tác động từ cải cách
Vậy tính tổng thể, đồng bộ (thậm chí có thể gọi là đồng loạt) của cải cách thể hiện ra là những chiến lược nào, liên quan đến lĩnh vực gì? Theo tác giả, có thể liệt kê một số quyết sách cụ thể sau đây:
Một là cải cách, cấu trúc lại các chủ thể trong hệ thống chính trị.
Hai là cải cách mạnh mẽ hệ thống hành chính gắn với các cấp chính quyền địa phương. Chiến lược này “đính kèm” hai thay đổi chiến lược: cắt giảm một cấp chính quyền địa phương từ ba cấp (địa phương) để cấu trúc chỉ còn hai cấp (tỉnh và xã), đồng thời với cấu trúc lại không gian cho cấp tỉnh và cấp xã. Có ý kiến hiểu (hay nhận thức) đơn giản, xã hiện nay như “huyện thu nhỏ” thì đó là hiểu cơ học, thiển cận. Vì huyện to, hay nhỏ vẫn có vị trí là cấp trung gian. Xã hiện nay nhất định không thể là trung gian với chức năng phục vụ nữa! Tư duy thứ hai là hiểu “xã” hiện nay vẫn y nguyên như các xã trước sáp nhập. Suy nghĩ đó cũng thiển cận, cơ học và không trên tư duy đổi mới. Với quy mô của cấp xã về chức trách, trách nhiệm gắn với nâng tầm nhận thức cho quản trị địa phương, có thể nói, đa số các vị chủ tịch xã hiện nay đều rất khó để đáp ứng, nếu không muốn nói là đa số không còn phù hợp (với đòi hỏi của nhân dân)!
Ba là cấu trúc lại nguồn lực theo hướng cương quyết tinh gọn, tinh giản, làm cho chính quyền bao gồm nguồn nhân lực tinh, mạnh, hiệu lực. Thực tế cần nhấn mạnh các yếu tố chi tiết của nguồn lực có lý do của sự thể hiện. Tinh có nghĩa là sẽ gọn. Tinh là một cấu trúc nguồn lực nhỏ nhưng phải tài năng, chuyên nghiệp, có khả năng xử lý các tình huống phức tạp mà xã hội đòi hỏi. Nhưng tinh không phải tất yếu sẽ mạnh. Nguồn lực muốn mạnh thì những cá nhân tài năng trong tổ chức phải có thêm các yếu tố phẩm chất. Đó là sự cần mẫn, trách nhiệm, gương mẫu và trong sạch.
Bốn là nhận thức lại và đặt lại vị trí, vị thế cho các cấu trúc kinh tế, xã hội của thời kỳ quá độ như nước ta hiện nay. Cụ thể là Đảng, Nhà nước, nhân dân xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trong của nền kinh tế đất nước(5). Ta gọi là nhận thức lại là ở chỗ: trong lý luận về thời kỳ quá độ chúng ta nhận thức về quy định trong các nghị quyết. Tuy nhiên do nhiều lý do và bối cảnh, hoàn cảnh khác nhau, trong một thời gian dài, giữa lý luận và thực tiễn, giữa quan điểm chính trị, quy định pháp lý cơ bản (Hiến pháp và luật) và tâm lý, tổ chức thực hiện trong đời sống kinh tế – xã hội thường không đi trên cùng một đường ray của thực tiễn sinh động! Nhận thức lại nghĩa là khẳng định về chủ trương, pháp luật đồng thời với các quyết sách cụ thể đặt đúng chỗ, tạo cơ hội, cơ chế và nghiêm cấm các hành vi gây cản trở kinh tế tư nhân (trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Đảng nhấn mạnh không những là xóa bỏ nhận thức lệch lạc mà còn xóa bỏ thái độ định kiến vốn là căn bệnh giáo điều, tách biệt giữa hệ thống quản điểm và hoạt động tổ chức thực hiện).
Năm là nhận thức lại về vai trò của khoa học và các nhà khoa học trong cấu trúc chủ thể phát triển kinh tế – xã hội bằng sự ra đời của Nghị quyết số 57-NQ/TW(6). Trong Nghị quyết, Trung ương dùng chữ “đột phá” thể hiện tính nhất quyết, nhất quán, tạo sự thay đổi cách mạng trong nhận thức và các quyết sách để khoa học đóng góp mạnh mẽ, đột biến cho phát triển kinh tế – xã hội. Phải chăng, muốn đất nước phát triển, đạt được các mục tiêu trước mắt (đến năm 2030) và tầm nhìn (đến năm 2045); nếu chúng ta muốn không rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu trong tương quan so sánh với khu vực và thế giới, thì không thể không đặt khoa học thành lĩnh vực ưu tiên đột phá như dân tộc đang cần tới nó!? Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đột phá về phát triển khoa học thì không thể không tác động tới chủ thể của hoạt động khoa học. Đó là nguồn lực khoa học đang cống hiến cho đất nước được chấp cánh bằng chủ trương, chính sách và các cơ chế khuyến khích, tạo cơ hội và dọn dẹp rào cản tác động tới hoạt động nghiên cứu và cống hiến. Về tổng thể, chúng được khẳng định trong Nghị quyết số 57-NQ/TW như chúng ta đã biết và các chính sách hàng ngày đang hình thành đối với các nhà khoa học có cống hiến. Trung ương và các cơ sở đào tạo, quản lý khoa học đều mạnh dạn xây dựng các chính sách thu hút nhân tài khoa học trong và ngoài nước.
Những nhận xét tổng quát các tác động cải cách
Qua những nội dung khái quát, cơ bản nói trên, có thể nêu mấy phân tích dưới đây, trên cơ sở phân tích mặt hình thái và nội dung của các yếu tố cải cách:
Về hình thái
Hình thái được tiếp cận theo mặt trực quan, định lượng, phạm vi xác định. Những cải cách, bắt đầu bằng thể chế lần này, có những yếu tố có thể quan sát trực quan, trực tiếp. Đó là cấu trúc lại không gian, thiết kế lại cấp chính quyền địa phương, tinh giản nguồn lực và thay đổi các cơ chế quản lý, các chế độ đãi ngộ đối với lực lượng khoa học và chất lượng đãi ngộ. Yếu tố trực quan, nhìn thấy đầu tiên và rất căn bản là cấu trúc không gian quản trị của chính quyền cơ sở và sự giảm thiểu rõ rệt số lượng các thực thể. Cụ thể từ 63 thực thể cấp tỉnh nay chỉ còn 34(7). Từ hơn 10.000, nay chỉ còn hơn 3.000 thực thể hành chính cấp xã(8). Cùng với điều chỉnh lại cấu trúc, quy mô cấp tỉnh và xã là Hiến pháp sửa đổi quy định xóa bỏ đơn vị hành chính cấp huyện cũng là yếu tố trực quan rõ rệt từ cải cách. Cụ thể, Quốc hôi thông qua việc sửa đổi theo quy định: các đơn vị hành chính của Việt Nam được tổ chức thành hai cấp(9). Rõ ràng các thay đổi cải cách có tính cách mạng ngay từ các thông tin về số lượng, thông tin về cấp quản lý tại địa phương.
Về nội dung
Nội dung của tiến trình cải cách lần này có sự thay đổi căn bản về bản chất của các yếu tố cải cách, nhất là năng lực của nguồn lực xã hội. Đây chính là vấn đề căn bản tác giả mong được trình bày. Mỗi thực thể hình thành thể hiện ra hai yếu tố thống nhất. Triết học đã chỉ ra sự thống nhất, cơ bản qua hệ thống một số phạm trù: lượng và chất; bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức. Các nội dung cải cách đều cơ bản phản ánh hai mặt thông nhất này. Xin phân tích cụ thể dưới đây.
Thứ nhất, thay đổi cấu trúc không gian hành chính là thay đổi không chỉ những mặt hình thức, hình hài bên ngoài (như giới hạn hành chính rộng hơn, các yếu tố vật chất lớn hơn, nhiều hơn, cư dân đông hơn…), mà căn bản là các yếu tố chất lượng của nguồn lực về nhận thức, chiến lược, chính sách cho các địa phương… Bộ máy quản trị không thể làm việc theo cách thức cũ để quản trị một thực thể mới phức tạp hơn, và cũng là cơ hội hơn. Nghĩa là các thiết chế phải thay đổi về chất. Đó là sự thay đổi “không thể khác” khi đối tượng quản lý đã thay đổi. Các quyết sách chính trị, chiến lược địa phương phải thay đổi theo hướng tăng tư duy chiến lược, giảm suy nghĩ đơn lẻ, manh mún khi đối tượng đã phong phú, đa dạng và phức tạp hơn. Thực tế sau sáp nhập, các thực thể cấp tỉnh mới về cơ bản không tỉnh nào chỉ còn đơn điệu những đối tượng quản lý như trước đây. Ngược lại, các yếu tố mới bắt đầu xuất hiện: cấu trúc nguồn lực phong phú, các thực thể tự nhiên đa dạng, phức tạp, đồi hỏi tư duy quản trị tiên tiến ở tầm chiến lược. Cùng với định hướng chính trị cho địa phương là hướng phân cấp mạnh mẽ cho cơ sở để tập trung vào nội dung quản trị chiến lược với các vùng, liên vùng ngay trong phạm vi một tỉnh. Khi phân cấp mạnh mẽ không những trong phạm vi cấp tỉnh, mà còn quan hệ phân quyền Trung ương – địa phương, theo đó pháp luật, thể chế đã quy định rõ: địa phương suy nghĩ, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm(10), địa phương thụ hưởng.
Thứ hai, khi các thực thể hành chính có kết cấu rộng lớn và đa dạng hơn, sự phân quyền Trung ương – địa phương mạnh và rõ ràng hơn thì ý chí sáng tạo, ở mỗi nơi các chủ thể quản trị địa phương phải có trách nhiệm chính trị cùng với nhân dân khơi thông nguồn lực vốn đang tiềm ẩn để làm giàu cho địa phương và cải thiện năng lực và chất lượng cuộc sống. Khơi dậy để làm sao từ cách làm “mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), đến chỗ mỗi tỉnh là một bức tranh độc đáo về cải cách, sáng tạo về kinh tế, xã hội và văn hóa. Cái riêng độc đáo bản sắc sẽ bổ trợ để trở thành một nền kinh tế thống nhất, nền văn hóa dân tộc hiện đại truyền thống. Mỗi con người đều là bình thường giống nhau. Nhưng khi có sự tác động của chính sách, sự kích cầu của lợi ích họ sẽ thay đổi ý chí, mạnh dạn đầu tư trí tuệ và vật chất cho sự thịnh vượng. Quản trị không cho người dân tiền hay vật chất, nhưng phải cho được người dân cơ hội chính sách để họ tự tạo ra những thứ cần thiết. Cụ thể, khi sự phân quyền gắn với chủ thể địa phương đã mở rộng, thì các vị bí thư, chủ tịch, đại diện cơ quan đại biểu, các công chức cấp chiến lược tại địa phương buộc phải thay đổi nếu họ còn muốn cống hiến cho địa phương.
Thứ ba, chỉ với quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế tư nhân đã làm thay đổi căn bản, từ chỗ tách rời quản điểm nhận thức, quy định pháp lý với tổ chức thực hiện, thái độ ứng xử, thì nay các yếu tố, quy trình như thế phải được liên kết, thống nhất một cách logic, hiệu quả. Hiểu đơn giản là giữa nói và làm đối với kinh tế tư nhân phải thay đổi theo cách thống nhất, nhất quán. Kinh tế tư nhân có vị trí trong cấu trúc thành phân kinh tế trong thời kỳ quá độ. Nó là tất yếu nên nó tự vạch được để tồn tại và phát triển. Nếu nhận thức đúng thì đóng góp của khu vực này chỉ có tốt lên, tốt hơn trong hành lang pháp lý thông thoáng của Nhà nước. Điều đó giải thích tại sao Đảng và Nhà nước lần cải cách này rất chú trọng và nhất quán đặt kinh tế tư nhân ở vị trí trọng điểm, động lực(11) trong hệ sinh thái kinh tế – xã hội của dân tộc.
Thứ tư, khi Đảng, Nhà nước đã xác định nhận thức lại và coi phát triển khoa học như một động lực tất yếu cho sự phát triển tạo sự đột phá, thì hệ quả không chỉ tác động riêng cho khoa học, mà còn thể hiện sự thấm nhuần học thuyết Mác về vai trò quyết định, đi trước của lực lượng sản xuất, trong đó con người giữ vai trò động lực. Trong nguồn lực con người thì các tinh hoa khoa học trong lực lượng sản xuất giữ vai trò dẫn dắt, tạo nên sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
Thứ năm, một số chính sách có tính đột phá của công cuộc cải cách lần này còn cho thấy một vấn đề ở tầm nhận thức từ sự sinh động của đời sống. Cụ thể, cùng một ý tưởng, một mong muốn, nhưng đề ra cho hiện nay thì phù hợp, nhưng nếu đặt ra mấy thập kỷ trước, có thể chỉ là giáo điều viển vông! Như vấn đề quyết sách cho hệ thống đường cao tốc hiện đại trong bản đồ toàn quốc; sự thống nhất ý chí cao của Đảng và Nhà nước về xây dựng tàu cao tốc với tốc độ tiến tiến nhất mà loài người đang có (với tốc độ 350 km/h); vấn đề khẳng định công chức đã nâng cao trình độ, tinh thông, chuyên nghiệp và có trách nhiệm thì không thể để họ sống lay lắt mà cống hiến được! Ba vấn đề trên là minh chứng rằng, chỉ có thể nói và tổ chức thực hiện ở ngày hôm nay, ở giai đoạn này với quy mô kinh tế nước ta đã đạt ở mức của các quốc gia trung bình thấp thì mới khả thi. Đó là sự thể hiện của nhận thức đúng đắn, không giáo điều vấn đề chân lý là cụ thể. Tổ chức thực hiện một chính sách phải trên cơ sở điều kiện vật chất cho phép.
Thứ sáu, cấu trúc là các cấp hành chính lãnh thổ ngoài gia tăng về chức năng của quản trị địa phương, còn là môi trường nuôi dưỡng, bổ sung nguồn lực cho bộ máy ở Trung ương. Các vị bí thư, chủ tịch của cấu trúc hành chính mới chắc chắn sẽ có trình độ, năng lực, ý chí và nhận thức tiếp cận tốt hơn khi được giao nhiệm vụ ở cấp Trung ương, cấp chiến lược quốc gia. Điều mà các cấu trúc nhỏ, đơn điệu về đối tượng quản lý khó mà đạt được!
Thứ bảy là tính liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, ràng buộc và thúc đẩy của các nội dung phân tích trên như một quan hệ biện chứng. Chúng không thể tách rời nhau vì cùng nằm trong một hệ sinh thái kinh tế, chính trị, cùng một không gian quốc gia thống nhất.
Những gì phân tích có thể là những điểm sáng của tương lai. Nhưng nghĩ, nói và thực thi thường có khoảng cách. Khoảng cách đó rộng hẹp ra sao, thông thoáng hay điểm nghẽn như thế nào (vấn đề Đảng thường hay đề cập hiện nay là điểm nghẽ cốt tử là thể chế, chính sách ), còn tùy thuộc vào quyết tâm chiến lược, vào các yếu tố phẩm chất các cá nhân trong hệ thống quản trị xã hội, quản lý nhà nước và cuối cùng không thể thiếu sự động hành, đồng thuận cao của toàn dân tộc. Những vấn đề này xin đề cập trong một bài viết khác.
- GS.TS Tô Lâm, Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim- kiem/-/2018/1005602/mot-so-noi-dung-co-ban-ve-ky-nguyen-moi%2C-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc%3B-nhung-
- Lam Giang, Bước đột phá chuẩn bị cho “tầm nhìn trăm năm” phát triển đất nước, https://daibieunhandan.vn/buoc-dot- pha-chuan-bi-cho-tam-nhin-tram-nam-phat-trien-dat-nuoc-10363224.html, ngày 30/3/2025.
- Trung Hưng, Đại biểu Quốc hội hiến kế giúp Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình, https://nhandan.vn/dai-bieu-quoc-hoi- hien-ke-giup-viet-nam-thoat-bay-thu-nhap-trung-binh-post887744.html,ngày 18/6/2025.
- TS Trần Văn Khải, ‘‘Sắp xếp lại giang sơn” – Sức mạnh đồng thuận vì tương lai Việt Nam hùng cường, https://dangcongsan.vn/ van-de-quan-tam/sap-xep-lai-giang-son-suc-manh-dong-thuan-vi-tuong-lai-viet-nam-hung-cuong2.html, ngày 01/7/2025.
- Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
- Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
- Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025.
- Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
- Điều 110 Hiến pháp 2013 sửa đổi (được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2025).
- Thủ tướng: Phân cấp, phân quyền để “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, https://cand.com.vn/thoi- su/thu-tuong-phan-cap-phan-quyen-de-dia-phuong-quyet-dia-phuong-lam-dia-phuong-chiu-trach-nhiem–i769968/, ngày 29/5/2025.
- Nghị quyết 68-NQ/TW (đã dẫn).
Nguồn: TS NGUYỄN HỮU KHIỂN – Nguyên Phó Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam
Để lại một bình luận