Vướng mắc khi áp dụng Điều 70 BLHS 2015 về ‘xóa án tích’

(LSVN) – Xóa án tích là một chế định quan trọng, cơ bản của pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người. Với chế định này, Nhà nước ta đã ghi nhận sự nỗ lực cải tạo của người phạm tội nhằm xóa bỏ đi quá khứ đã từng bị kết án của họ, từ đó giúp xóa bỏ thành kiến của xã hội đối với người phạm tội, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Kế thừa và hoàn thiện Bộ luật Hình sự (BLHS) năm1999, BLHS năm 2015 tiếp tục sửa đổi, bổ sung chế định về án tích và đương nhiên xóa án tích cho phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định về đương nhiên xóa án tích theo BLHS 2015, chúng tôi thấy có một số vướng mắc, nhiều nội dung của quy định đương nhiên xóa án tích còn có những nhận thức khác nhau gây khó khăn cho việc áp dụng.

1. Về quy định đương nhiên xóa án tích 

Điều 70 BLHS 2015 quy định về đương nhiên được xóa án tích như sau:

“1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm,tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

Người bị kết án đương nhiên được xóaán tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.

Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.

2. Vướng mắc khi áp dụng Điều 70 BLHS về xóa án tích

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Theo quy định tại Điều 70 nêu trên hiện đang có hai quan điểm về việc xóa án tích theo vụ án dưới đây:

Ngày 06/02/2018, Trần Văn B. bị xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 262 BLHS. Về bồi thường dân sự Trần Văn B. đã bồi thường cho gia đình bị hại 200 triệu đồng. Về phần cấp dưỡng, Tòa tuyên buộc Trần Văn B. phải có trách nhiệm cấp dưỡng cho bà H. (mẹ đẻ bị hại) hàng tháng 600.000 đồng; thời hạn kể từ khi bị hại chết đến khi bà H. chết. Ngày 20/02/2025, Trần Văn B. làm thủ tục cấp lý lịch tư pháp. Trong thời gian trên Trần Văn B. không phạm tội mới, nộp xong án phí và hàng tháng vẫn cấp dưỡng cho bà H.

Việc xác định Trần Văn B. đã được xóa án tích hay chưa có 02 quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Trần Văn B. chưa chấp hành xong các quyết định của bản án và chưa được coi là đương nhiên xóa án theo quy định tại Điều 70 BLHS. Cụ thể, phần cấp dưỡng vẫn đang được thực hiện hàng tháng nên chưa thể tính là B đã thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng đối với bà H.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Trần Văn B. được coi là đương nhiên xóa án theo quy định tại Điều 70 BLHS. Hình phạt chính, bồi thường thiệt hại, án phí B. đều đã thực hiện xong, hàng tháng B. đều thực hiện việc chu cấp cho bà H. theo quyết định của bản án Tòa đã tuyên. Nếu chỉ xóa án tích khi B. thực hiện xong nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ rất bất lợi cho B. Thời gian để B. được xóa án tích có thể kéo dài đến khi bà H mất.

Theo quan điểm của người nghiên cứu, nghĩa vụ cấp dưỡng là một phần của quyết định của bản án mà Tòa án đã tuyên. Chính vì vậy, Trần Văn B. chỉ được xóa án tích khi chấp hành xong nghĩa vụ cấp dưỡng theo khoản 2 Điều 70 BLHS. Tuy nhiên, thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kéo dài đồng nghĩa với việc có nhiều hạn chế về quyền lợi của B. có thể kể đến như hạn chế việc làm và cơ hội nghề nghiệp, hạn chế trong thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh; ảnh hưởng đến hồ sơ lý lịch tư pháp. Điều này tạo ra sự bất lợi của B. cũng như làm ảnh hưởng đến việc B. được tái hòa nhập với cộng đồng. Để giải quyết vấn đề này, người nghiên cứu có kiến nghị như sau: Có thể xem xét xóa án tích cho Trần Văn B. với điều kiện đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng đối với bà H. Việc đảm bảo này có thể qua thỏa thuận giữa người nhận cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng, thỏa thuận này yêu cầu B. phải đặt cọc, ký quỹ một khoản tiền hoặc thế chấp tài sản để đảm bảo cho việc cấp dưỡng. Ngoài ra, B. còn phải chứng minh thu nhập cá nhân hàng tháng là ổn định và đủ để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khi có đầy đủ những yêu cầu này thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp xem xét xác nhận.

Trên đây là quan điểm giải quyết vụ án, rất mong TAND Tối cao có thể tham khảo kiến nghị trên và có hướng dẫn kịp thời để đảm bảo mục đích của chế định xóa án tích và quyền, nghĩa vụ của người được cấp dưỡng trong vụ án hình sự.

Nguồn: VŨ HOÀNG – Tòa án Quân sự Quân khu 3 – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan