Trong giai đoạn 2025 – 2030, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục có nhiều chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, tình hình kinh tế – xã hội trong nước bên cạnh mặt thuận lợi, còn nhiều khó khăn, thách thức, đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp, tác động sâu sắc đến hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Giai đoạn tới mở ra nhiều thời cơ, thuận lợi quan trọng đối với Đảng bộ Bộ Tư pháp. Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp – những trụ cột của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc biệt, việc triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) và Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW) đã khẳng định rõ vai trò nòng cốt của Bộ Tư pháp trong kiến tạo thể chế, tham mưu chính sách lớn về xây dựng, thi hành pháp luật. Cùng với nền tảng 80 năm xây dựng và phát triển, với truyền thống đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực, tận tụy trong công việc; đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng trưởng thành, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đồng bộ, thống nhất, minh bạch, khả thi, tạo môi trường pháp lý ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước.
![]() |
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long tặng hoa chúc mừng Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Tư pháp nhiệm kỳ 2025 – 2030. |
Giai đoạn 2025 – 2030 là thời kỳ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước và ngành Tư pháp
Khối lượng các văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung, thay thế trong giai đoạn tới là rất lớn. Chất lượng một số văn bản pháp luật còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn; tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật vẫn diễn ra, ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành và môi trường đầu tư, kinh doanh. Tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu trong chu trình điều chỉnh pháp luật; công tác theo dõi, kiểm tra, đánh giá hiệu quả chính sách có mặt còn chưa thực chất, thiếu công cụ hỗ trợ hiện đại và cơ chế phối hợp đồng bộ. Một số lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc Bộ như bổ trợ tư pháp, giám định tư pháp, hộ tịch… đòi hỏi cần nhiều giải pháp đổi mới trong tổ chức thực hiện, trong khi nguồn lực được phân bổ không đồng đều giữa các địa phương. Việc chuyển đổi số còn có nhiều khó khăn về hạ tầng, dữ liệu và nhân lực.
Giai đoạn 2025 – 2030 là thời kỳ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước và ngành Tư pháp, là giai đoạn bản lề thực hiện các định hướng chiến lược phát triển đất nước được xác định tại Đại hội XIII và Đại hội XIV của Đảng. Đây cũng là thời điểm nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển mạnh sang mô hình phát triển nhanh, bền vững dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Trong bối cảnh đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng thể chế, pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, phụng sự nhân dân và doanh nghiệp. Ngành Tư pháp đang có thời cơ lớn để phát huy vai trò nòng cốt trong kiến tạo thể chế, hoàn thiện pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp – góp phần trực tiếp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Phát huy vai trò nòng cốt trong công tác tham mưu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp; xây dựng Bộ Tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, gắn với chuyển đổi số, phát triển nền tư pháp phục vụ nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW; Nghị quyết số 66-NQ/TW; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
09 chỉ tiêu đề ra trong nhiệm kỳ 2025 – 2030
Thứ nhất, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp nhằm hiện thực hóa mục tiêu Nghị quyết số 66-NQ/TW: Đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, công khai, minh bạch, khả thi, với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, bảo đảm hoạt động liên tục, thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp bộ máy, tháo gỡ vướng mắc thực tiễn, tạo điều kiện phát triển, huy động người dân và doanh nghiệp tham gia phát triển kinh tế – xã hội, trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp hiệu quả, đảm bảo công bằng, nghiêm minh, tạo niềm tin xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tinh thông chuyên môn, thích ứng với thời kỳ mới, tiên phong xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật theo Nghị quyết 66-NQ/TW. Tăng cường chuyển đổi số toàn diện trong lĩnh vực pháp luật, đẩy mạnh xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia, nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ người dân. Đổi mới phương thức lãnh đạo cấp ủy, nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, dân chủ, hiện đại.
Thứ hai, phấn đấu 100% cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Bộ tham gia học tập, nghiên cứu, quán triệt và triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Đảng ủy Chính phủ và Đảng ủy Bộ, phù hợp điều kiện thực tế từng cơ quan, đơn vị.
Đảng ủy Bộ và 100% tổ chức đảng trực thuộc xây dựng và thực hiện hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Chính phủ và Nghị quyết Đại hội lần thứ I Đảng bộ Bộ; triển khai hiệu quả Quy chế phối hợp công tác giữa Đảng ủy và Lãnh đạo Bộ; giữa cấp ủy và lãnh đạo cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, hằng năm, trên 90% tổ chức đảng trực thuộc được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong đó 20% hoàn thành xuất sắc. Ít nhất 90% đảng viên được xếp loại đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong đó 20% hoàn thành xuất sắc. Phấn đấu 90% đảng viên được xếp loại công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn.
Thứ tư, 100% tổ chức đảng trực thuộc và cán bộ, đảng viên thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phấn đấu 100% đảng viên giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ theo Điều lệ Đảng, không suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Thứ năm, đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ công tác đảng được bồi dưỡng nghiệp vụ ít nhất một lần nhiệm kỳ. Phấn đấu 100% chi bộ duy trì sinh hoạt định kỳ theo Điều lệ (01 lần/tháng), sinh hoạt chuyên đề mỗi quý, đảm bảo chất lượng, bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Thứ sáu, trong nhiệm kỳ, kết nạp 3% đảng viên mới đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng; quản lý chặt đảng viên, đặc biệt khi công tác nước ngoài; 100% đảng viên dự bị chuyển chính thức.
Thứ bảy, trong nhiệm kỳ, tiến hành kiểm tra, giám sát 100% tổ chức đảng trực thuộc; các đảng bộ cơ sở kiểm tra, giám sát 100% chi bộ; 100% chi bộ tự kiểm tra, giám sát theo quy định.
Thứ tám, Đảng ủy Bộ phấn đấu đạt danh hiệu hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm, có năm đạt hoàn thành xuất sắc.
Thứ chín, Hằng năm, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu Chiến binh, Chi hội Luật gia cơ quan Bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên.
Các giải pháp để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ mới
Một là, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, tạo đột phá, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện đại, đồng bộ, thống nhất, khả thi, kiến tạo phát triển đất nước.
Tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa và triển khai đồng bộ các nghị quyết quan trọng của Đảng, Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật (Nghị quyết số 27-NQ/TW, 04 nghị quyết trụ cột phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là Nghị quyết số 66-NQ/TW). Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, xác lập pháp luật ở vị trí trung tâm trong quản lý nhà nước và điều hành phát triển. Chuyển mạnh từ tư duy “ban hành pháp luật để quản lý” sang “kiến tạo thể chế để phát triển”; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, pháp luật làm động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế.
Tham mưu hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật theo hướng khoa học, đồng bộ, ổn định, thống nhất, dễ tiếp cận, khả thi, bảo đảm liên thông giữa các ngành, lĩnh vực; đồng thời xử lý căn cơ tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột pháp luật. Thực hiện hiệu quả nhiệm vụ cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật. Tổ chức hiệu quả việc rà soát pháp luật định kỳ, có cơ chế cập nhật và hoàn thiện thường xuyên. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện nghiêm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định liên quan.
Thực hiện nghiêm kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật. Tăng cường công khai, minh bạch trong quy trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và ban hành văn bản.
Người đứng đầu các đơn vị thuộc Bộ phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, chịu trách nhiệm chính về chất lượng chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của đơn vị mình; gắn với công tác đánh giá, khen thưởng, sử dụng cán bộ và có chế tài, biện pháp xử lý đối với người không thực hiện đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật.
Hai là, nâng cao chất lượng tổ chức thi hành pháp luật.
Tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật, phát huy cao độ tinh thần phục vụ Nhân dân, tư duy kiến tạo phát triển, hành động vì lợi ích chung của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật và đạo đức công vụ. Ưu tiên bảo đảm hiệu quả thi hành pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và trong các lĩnh vực dân sinh quan trọng khác. Tăng cường tham mưu thực hiện công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp luật để bảo đảm sức sống của văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cường giáo dục pháp luật và truyền thông pháp lý, gắn kết pháp luật với đời sống, nâng cao năng lực pháp lý toàn dân. Tổ chức vận hành hiệu quả Cổng Pháp luật quốc gia bảo đảm cung cấp, hỗ trợ thông tin pháp luật nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả đến người dân và doanh nghiệp.
Ba là, đổi mới toàn diện, hiện đại hóa công tác thi hành án dân sự, hành chính
Tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành án; rút ngắn thời gian xử lý, giảm chi phí tổ chức, bảo đảm công khai, minh bạch, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Tăng cường chỉ đạo, điều hành quyết liệt đối với các vụ việc trọng điểm, phức tạp, nhất là thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan trong rà soát, tháo gỡ vướng mắc khi thi hành các bản án có hiệu lực pháp luật.
Chủ động khắc phục tình trạng tồn đọng án hành chính, đặc biệt là các bản án liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; tham mưu hoàn thiện cơ chế kiểm soát trách nhiệm thi hành, bảo đảm thượng tôn và thực thi nghiêm minh pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách và mô hình tổ chức thi hành án theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả; đổi mới quy trình, thủ tục thi hành án gắn với ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, nâng cao trách nhiệm giải trình và tăng cường giám sát xã hội. Từng bước xã hội hóa có kiểm soát một số hoạt động hỗ trợ thi hành án như thẩm định giá, bán đấu giá, xác minh điều kiện thi hành… trên cơ sở bảo đảm tính pháp lý, chất lượng dịch vụ và thuận lợi hơn cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời giảm áp lực cho cơ quan thi hành án dân sự.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong thi hành án dân sự, hành chính; vận hành hiệu quả cơ sở dữ liệu điện tử, kết nối liên thông với các cơ quan đăng ký tài sản, ngân hàng, công chứng… nhằm hỗ trợ xác minh, kê biên, xử lý tài sản kịp thời, minh bạch và đúng pháp luật.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về pháp luật, chủ động định hình và nâng cao vị thế pháp lý quốc gia.
Đổi mới công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức Việt Nam để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, định hình trật tự pháp lý quốc tế; tham gia tích cực vào việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế; tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Xử lý tốt các vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh, nhất là tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế; xây dựng chiến lược tăng cường sự hiện diện của các chuyên gia Việt Nam trong các tổ chức pháp lý quốc tế và cơ quan tài phán quốc tế.
Mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp; xây dựng, phát triển mạng lưới chuyên gia pháp lý nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ nghiên cứu, tư vấn các vấn đề mới trong phát triển kinh tế – xã hội, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mở rộng hợp tác với ít nhất 30 quốc gia và tổ chức quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, đào tạo tư pháp; tổ chức thành công các diễn đàn pháp lý quốc tế cấp khu vực và toàn cầu trong nhiệm kỳ.
Năm là, thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính tư pháp và phát triển đồng bộ hệ thống bổ trợ tư pháp.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, tạo động lực hỗ trợ cải cách tư pháp. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ pháp lý, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý, đăng ký biện pháp bảo đảm để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật, quản trị rủi ro pháp lý.
Cải cách căn bản thủ tục hành chính trong các lĩnh vực: hộ tịch, quốc tịch công chứng, chứng thực, thi hành án dân sự; rút ngắn ít nhất 30% thời gian giải quyết thủ tục hành chính tư pháp so với hiện hành. Nghiên cứu, tổng kết đánh giá, mở rộng mô hình “Trung tâm pháp lý cộng đồng” tại các địa phương trọng điểm. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm thông qua việc vận hành có hiệu quả hệ thống đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm bằng động sản.
Sáu là, thực hiện chuyển đổi số toàn diện, nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ trong ngành Tư pháp.
Tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) trong quản lý nhà nước về pháp luật. Xây dựng và vận hành 05 cơ sở dữ liệu số cốt lõi (Cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật; Cơ sở dữ liệu về thi hành án; Cơ sở dữ liệu bổ trợ tư pháp; Cơ sở dữ liệu hộ tịch/quốc tịch; Cơ sở dữ liệu đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản); 100% dịch vụ công trong ngành Tư pháp đạt mức độ toàn trình, có thể thực hiện trên thiết bị di động; Xây dựng Bản đồ pháp luật quốc gia, liên thông với các cơ quan trung ương và địa phương; đẩy mạnh tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các hệ thống thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành.
100% đơn vị thuộc Bộ Tư pháp vận hành hệ thống văn bản điều hành điện tử, 90% cán bộ tư pháp sử dụng thành thạo các nền tảng số chuyên ngành; giảm 80% thời gian xử lý thủ tục hành chính nhờ ứng dụng công nghệ; ít nhất 3 triệu người dùng thường xuyên các nền tảng số pháp lý thuộc Bộ Tư pháp.
Bảy là, phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp
Tiếp tục thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ; củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đào tạo, bồi dưỡng cho ít nhất 5.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, quản lý nhà nước, công nghệ số, ngoại ngữ; phấn đấu 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ/cục trở lên được bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo theo yêu cầu chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo luật và phát triển Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp luật và Học viện Tư pháp thành Trung tâm lớn về đào tạo các chức danh tư pháp.
Thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù đối với nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật; đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật chuyên nghiệp của Bộ, ngành Tư pháp và chuẩn hóa đào tạo đối với các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp thuộc phạm vi quản lý theo chủ trương đổi mới công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới.
Công tác xây dựng Đảng cần tiếp tục được xác định là nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt và toàn diện, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với hoạt động tư pháp
Trong nhiệm kỳ tới, công tác xây dựng Đảng cần tiếp tục được xác định là nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt và toàn diện, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với hoạt động tư pháp, góp phần xây dựng nền tư pháp liêm chính, phụng sự nhân dân, phục vụ phát triển đất nước nhanh, bền vững, trong đó:
Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực đổi mới và tư duy chiến lược của cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu. Đẩy mạnh việc học tập, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, nhất là các nội dung về đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng, lối sống cho cán bộ, đảng viên, chú trọng khơi dậy tinh thần “tự chủ, tự cường, tự lực, tự tin, tự hào dân tộc”, từng bước hình thành văn hóa chính trị, văn hóa công vụ, đạo đức liêm chính trong toàn ngành.
Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), kết hợp chặt chẽ với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xác lập chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, đảng viên ngành Tư pháp; gắn với việc tu dưỡng, rèn luyện, đánh giá phẩm chất chính trị, năng lực thực thi công vụ. Kiên quyết khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, ngại đổi mới, sợ va chạm; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đạo đức, suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Tập trung xây dựng tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục rà soát, kiện toàn mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác giữa các tổ chức đảng, bảo đảm phù hợp với đặc thù của ngành, nhất là chỉ đạo hoàn thành việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống cơ quan thi hành án dân sự và tập trung tháo gỡ khó khăn cho các cơ quan tư pháp địa phương trong triển khai thực hiện phân cấp, phân quyền, công tác tư pháp tại chính quyền địa phương 02 cấp. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt chuyên đề, tăng cường kỷ cương, nền nếp trong sinh hoạt Đảng. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, phát huy dân chủ nội bộ, đề cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu.
Đổi mới toàn diện công tác cán bộ, gắn kết chặt chẽ giữa công tác xây dựng Đảng với xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Trong đó, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, chuyên môn, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao và đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành và nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật theo yêu cầu tại Nghị quyết số 66-NQ/TW. Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý đi đôi với kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kiểm soát quyền lực hiệu quả. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người bị ảnh hưởng bởi quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy. Triển khai đồng bộ việc xây dựng cơ sở dữ liệu cán bộ, đảng viên, bảo đảm kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia, phục vụ hiệu quả công tác quản lý.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, bảo đảm tính nghiêm minh, chính xác, kịp thời. Chú trọng giám sát từ sớm, từ xa, từ cơ sở, tập trung vào lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực như công tác cán bộ, tài chính, đầu tư, thi hành án dân sự. Tăng cường tự kiểm tra, giám sát nội bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác kiểm tra, ủy ban kiểm tra các cấp; phát huy vai trò nêu gương và trách nhiệm chính trị của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong toàn hệ thống.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp theo hướng chủ động, linh hoạt, bám sát nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là nhiệm vụ tham mưu xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Nâng cao năng lực thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng; tăng cường phối hợp giữa cấp ủy với lãnh đạo các đơn vị chuyên môn; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể và quần chúng trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Thực hiện tốt công tác dân vận trong cơ quan, đơn vị; phát huy quyền làm chủ và vai trò của cán bộ, đảng viên, người lao động trong xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo”, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể gắn với nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp.
Xác định rõ 03 đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ 2025 – 2030
Thứ nhất, đột phá thực chất trong xây dựng pháp luật, tham mưu hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi.
Trọng tâm đột phá: (i) Tham mưu hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo hướng hiện đại, hội nhập, phản ứng linh hoạt với yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tổ chức rà soát, phân loại, hệ thống hóa hệ thống pháp luật hiện hành; xác định trọng tâm ưu tiên để hợp nhất, sửa đổi, thay thế hoặc bãi bỏ; (ii) Tháo gỡ triệt để các điểm nghẽn, bất cập trong pháp luật đang cản trở phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng; (iii) Thực hiện đổi mới căn bản quy trình xây dựng pháp luật, chuyển từ tư duy làm luật kỹ thuật sang tư duy hoạch định chính sách pháp luật; triển khai hiệu quả quy trình 2 giai đoạn: xây dựng chính sách và soạn thảo văn bản pháp luật; (iv) Tăng cường năng lực phân tích chính sách, dự báo tác động pháp lý, nâng cao chất lượng hồ sơ chính sách và chất lượng các dự án luật ngay từ khâu đề xuất; (v) Phát huy vai trò chuyên gia, tư vấn phản biện trong xây dựng pháp luật.
Thứ hai, đột phá về xây dựng nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao, chuyên nghiệp, năng động, có tư duy đổi mới, kỹ năng hiện đại và năng lực hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành Tư pháp và chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Trọng tâm đột phá: (i) Áp dụng cơ chế đặc thù, cơ chế tuyển dụng, thu hút và đãi ngộ chuyên gia, cán bộ pháp lý giỏi, chuyên gia pháp luật quốc tế, nhà khoa học pháp lý có kinh nghiệm thực tiễn để tăng cường nguồn lực chất lượng cao cho Bộ, ngành; (ii) Xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng xây dựng pháp luật chuyên nghiệp, về luật quốc tế, trọng tài quốc tế, hợp tác pháp luật và quản trị pháp luật, tăng cường phối hợp giữa Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp với các tổ chức giáo dục uy tín trong nước và quốc tế; (iii) Phát triển Viện Chiến lược và Khoa học pháp thành trung tâm nghiên cứu trọng điểm quốc gia, có khả năng dẫn dắt nghiên cứu chính sách pháp luật, tư vấn chiến lược, phản biện khoa học trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, đạt chuẩn khu vực ASEAN; (iv) Phấn đấu nâng cao chuẩn quốc tế cho cán bộ pháp luật ngành Tư pháp: ít nhất 50 cán bộ đạt chuẩn quốc tế (có chứng chỉ, bằng cấp quốc tế về hành nghề luật, nghiên cứu pháp luật); 100% cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật được đào tạo bài bản về kỹ năng xây dựng chính sách, quản trị đổi mới.
Thứ ba, đột phá về chuyển đổi số toàn diện, hiện đại hóa công tác pháp luật, thi hành pháp luật và quản trị tư pháp bằng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo.
Trọng tâm đột phá: (i) Xây dựng và vận hành đồng bộ cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia “sống”, liên thông, cập nhật tự động, phục vụ mọi đối tượng sử dụng từ người dân, doanh nghiệp đến cơ quan quản lý nhà nước; (ii) Thí điểm và mở rộng ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong: Phát hiện, cảnh báo sớm các điểm chồng chéo, mâu thuẫn pháp lý; Hỗ trợ tra cứu, phân tích, dự báo tác động pháp lý của chính sách và văn bản; Hỗ trợ công tác giám sát thi hành pháp luật và xử lý vi phạm; (iii) Số hóa và tự động hóa dịch vụ công tư pháp với mục tiêu đạt 100% dịch vụ công mức độ 4 (dịch vụ công trực tuyến đầy đủ, thực hiện được trên thiết bị di động), tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm như hộ tịch, thi hành án, bổ trợ tư pháp, đăng ký bảo đảm; (iv) Phát triển nền tảng số phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn pháp lý trực tuyến, đa dạng hóa các hình thức truyền thông, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận thông tin pháp luật; (v) Nâng cao năng lực công nghệ thông tin và chuyển đổi số cho cán bộ, công chức ngành Tư pháp, đảm bảo 100% cán bộ lãnh đạo và chuyên viên chủ chốt được đào tạo bài bản về chuyển đổi số.
Bước vào Kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Tư pháp nhiệm kỳ 2025 – 2030 kêu gọi các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, tự cường, tự tin, chủ động đổi mới, sáng tạo, bứt phá, quyết tâm xây dựng Đảng bộ Bộ Tư pháp trong sạch, vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Bộ Tư pháp đã đề ra, góp phần hoàn thành các mục tiêu của Đảng bộ Chính phủ và các mục tiêu phát triển đất nước của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng./.
Để lại một bình luận