(LSVN) – Qua phân tích và đánh giá các quy định của Việt Nam, ta có thể thấy pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc quy định về tên gọi, địa vị pháp lý, thẩm quyền xét xử của Tòa SHTT tại Tòa án nhân dân khu vực mà chưa có các quy định cụ thể về nhân sự, tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh cũng như các yếu tố hỗ trợ cho hoạt động của Tòa SHTT. Bên cạnh đó, tính chuyên môn hóa mới được thể hiện ở cấp xét xử sơ thẩm đối với vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ mà chưa mở rộng đối với xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về SHTT cũng như chưa có quy định đặc thù ở cấp xét xử phúc thẩm các tranh chấp liên quan đến SHTT. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính thống nhất, đồng bộ và hiệu quả giải quyết một cách toàn diện các tranh chấp về SHTT, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh phát triển không ngừng của công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
1. Thực trạng pháp luật liên quan đến xây dựng cơ chế tài phán quốc gia về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam đáp ứng tinh thần của Nghị quyết 68/NQ/TW
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc mang lại lợi thế cạnh tranh, làm gia tăng lợi ích cho các chủ sở hữu cũng như hỗ trợ việc xây dựng uy tín, danh tiếng cho các chủ thể kinh doanh. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào việc tạo lập, khai thác và bảo vệ các tài sản trí tuệ như quyền tác giả đối với tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm điện ảnh, mỹ thuật ứng dụng, chương trình máy tính; quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu. Số lượng đơn đăng ký quyền SHTT của các chủ thể thuộc thành phần kinh tế tư nhân không ngừng gia tăng, tạo tiền đề quan trọng cho việc thực thi, bảo vệ tài sản trí tuệ của các doanh nghiệp này. Với mục tiêu đưa kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, là lực lượng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân[1]. Theo đó, Nghị quyết đề ra giải pháp cần rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền SHTT và tài sản vô hình; hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Thể chế hóa tinh thần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng cường bảo hộ quyền SHTT đáp ứng yêu cầu hội nhập, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 06 năm 2024, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2025, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 06 năm 2025, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2025 quy định về Tòa SHTT tại một số Tòa án nhân dân khu vực[2]. Trên cơ sở đó, ngày 27 tháng 06 năm 2025, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 về thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực; quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực. Theo đó, Tòa SHTT được xây dựng là một thiết chế xét xử độc lập, có thẩm quyền theo lãnh thổ rộng nhưng mang tính chuyên môn cao nằm trong tòa án nhân dân khu vực tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh – hai trung tâm kinh tế, thương mại lớn nhất của cả nước, tập trung nhiều doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, sản xuất, kinh doanh và phát sinh nhiều tranh chấp liên quan đến SHTT. Cụ thể, Tòa án nhân dân khu vực 2 – Hà Nội có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ đối với 20 tỉnh, thành phố gồm: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Huế; các tỉnh: Bắc Ninh, Cao Bằng, Điện Biên, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Nghệ An, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sơn La, Thái Nguyên, Thanh Hóa và Tuyên Quang. Tòa án nhân dân khu vực 1 – Thành phố Hồ Chí Minh có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 14 tỉnh, thành phố gồm: thành phố Cần Thơ, thành phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh; các tỉnh: An Giang, Cà Mau, Đắk Lắk, Đồng Nai, Gia Lai, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Tây Ninh và Vĩnh Long[3]. Như vậy, Tòa SHTT tại Tòa án nhân dân khu vực 1 và khu vực 2 hiện nay chỉ có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ. Việc giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến SHTT vẫn thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân theo quy định chung.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Trên cơ sở đó, ngày 25 tháng 06 năm 2025, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2025. Theo đó, Tòa SHTT Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ[4]. Đối với những vụ việc mà bản án, quyết định kinh doanh, thương mại; bản án, quyết định dân sự về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm theo quy định[5]. Thẩm quyền về giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại về quyền SHTT và chuyển giao công nghệ tuân theo quy định chung đối với các thủ tục này. Bên cạnh đó, Tòa SHTT Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực[6]. Đối với những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa Hành chính Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực nhưng bị kháng nghị theo quy định[7]. Việc thành lập thiết chế về Tòa SHTT tại một số Tòa án nhân dân khu vực là cần thiết bởi tính chất đặc thù của tài sản trí tuệ liên quan đến các yếu tố kỹ thuật như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp; các tranh chấp có yếu tố nước ngoài với sự tham gia của nhiều chủ thể có mối quan hệ phức tạp; các tranh chấp thường khó khăn trong việc xác định thiệt hại, thu thập chứng cứ hay việc đánh giá đúng sai phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Sự hình thành của Tòa SHTT trong một số Tòa án nhân dân khu vực đã bước đầu mở ra cơ hội cho các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân có thể thực thi một cách hiệu quả các quyền độc quyền đối với tài sản trí tuệ do họ tạo ra và được pháp luật ghi nhận, giải quyết thỏa đáng những thiệt hại mà các chủ thể phải gánh chịu do hành vi xâm phạm, đảm bảo tính công bằng, dân chủ cũng như tạo động lực để các doanh nghiệp không ngừng đổi mới sáng tạo, góp phần phát triển khoa học công nghệ cho đất nước. Sự đổi mới này không chỉ đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa trong giải quyết tranh chấp về SHTT có xu hướng gia tăng trong bối cảnh phát triển khoa học công nghệ, mà còn thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền SHTT.
Tuy nhiên, qua phân tích và đánh giá các quy định của Việt Nam, ta có thể thấy pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc quy định về tên gọi, địa vị pháp lý, thẩm quyền xét xử của Tòa SHTT tại Tòa án nhân dân khu vực mà chưa có các quy định cụ thể về nhân sự, tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh cũng như các yếu tố hỗ trợ cho hoạt động của Tòa SHTT. Bên cạnh đó, tính chuyên môn hóa mới được thể hiện ở cấp xét xử sơ thẩm đối với vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về SHTT, chuyển giao công nghệ mà chưa mở rộng đối với xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về SHTT cũng như chưa có quy định đặc thù ở cấp xét xử phúc thẩm các tranh chấp liên quan đến SHTT. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính thống nhất, đồng bộ và hiệu quả giải quyết một cách toàn diện các tranh chấp về SHTT, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh phát triển không ngừng của công nghệ, trí tuệ nhân tạo.
2. Kinh nghiệm xây dựng cơ chế tài phán quốc gia về sở hữu trí tuệ tại một số quốc gia
Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới đã thành lập Tòa án chuyên trách về SHTT và hoạt động khá hiệu quả như Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan…
Tại Nhật Bản, Tòa án cấp cao về SHTT được thành lập vào tháng 04 năm 2005 là một nhánh đặc biệt của Tòa án cấp cao Tokyo[8]. Mục đích của việc thành lập Tòa án cấp cao về SHTT là đảm bảo các thủ tục xét xử các vụ án SHTT diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn, dựa trên nhận thức rằng vai trò của ngành tư pháp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc bảo vệ quyền SHTT một cách phù hợp cùng với việc sử dụng tích cực quyền SHTT trong nền kinh tế và xã hội Nhật Bản, qua đó nâng cao các dịch vụ tư pháp chuyên xử lý các vụ án SHTT. Tòa án cấp cao về SHTT thụ lý các đơn kháng cáo từ tòa án quận tại Nhật Bản về các vụ kiện liên quan đến bằng sáng chế và các vụ kiện chống lại các quyết định kháng cáo/xét xử của Cơ quan SHTT Nhật Bản (JPO). Tòa án cũng thụ lý bất kỳ vụ án nào khác tại Tòa án cấp cao Tokyo, nếu bản chất và nội dung vụ án liên quan đến SHTT. Để áp dụng đầy đủ chuyên môn của mình, Tòa án cấp cao SHTT được hưởng thẩm quyền độc lập về việc lập hồ sơ vụ án và một số dịch vụ hành chính tư pháp khác. Như vậy, tòa chuyên trách về SHTT tại Nhật Bản được tổ chức ở cấp tỉnh với thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự, hình sự về xâm phạm quyền SHTT và các vụ án hành chính phát sinh trong quá trình đăng ký các đối tượng SHTT tại JPO.
Tại Malaysia, Tòa án chuyên trách về SHTT được chính thức thành lập ngày 17/07/2007 sau một thời gian chuẩn bị các điều kiện cần thiết. Chính phủ Malaysia đã phê chuẩn thành lập 15 Tòa có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến SHTT tại 15 bang (bao gồm cả Putrajaya) và 6 tòa có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án dân sự và phúc thẩm tại các bang Kuala Lumpur, Selangor, Johor, Perak, Sabah và Sarawak[9]. Các Tòa chuyên trách về SHTT bao gồm các Tòa án chuyên trách theo phiên thuộc hệ thống Tòa án cấp dưới và các Tòa án chuyên trách cấp cao thuộc hệ thống Tòa án tối cao. Theo đó, các tranh chấp về SHTT sẽ được giải quyết trước hết ở các Tòa án chuyên trách theo phiên ở cấp dưới, sau đó, nếu các bên chủ thể chưa hài lòng với phán quyết của Tòa này có thể làm thủ tục phúc thẩm vụ việc lên Tòa án chuyên trách cấp cao. Về thẩm quyền đặc biệt trong lĩnh vực SHTT của các Tòa án chuyên trách về SHTT, các Tòa án chuyên trách được trao quyền năng đặc biệt duy nhất để xét xử những vụ việc về vi phạm quyền SHTT, bao gồm các hành vi xâm phạm quy định tại Điều 41 Luật về quyền tác giả ban hành năm 1987 và Luật mô tả thương mại năm 2011. Mặc dù Tòa chuyên trách có thể thông qua bất cứ bản án nào nếu cho rằng nó là phù hợp, ngoại trừ bản án tử hình thì với tư cách là Tòa án chuyên về SHTT, thẩm quyền của các Tòa này cũng bị chính Luật SHTT giới hạn. Ngoài ra, Malaysia còn có cơ chế giúp việc cho Tòa chuyên trách về SHTT, bao gồm: Công tố viên ủy quyền thường trực (Dedicated Deputy Public Prosecutor) chuyên phụ trách hoạt động công tố đối với các vụ việc hoặc vụ án về quyền SHTT; Trợ lý ban Thi hành án (The Assistant Given by the Enforcement Division); Các tòa nhà năng lực (Capacity Building) nơi cung cấp nhân lực giàu chuyên môn để giúp việc cho các Thẩm phán tại Tòa án chuyên trách về SHTT; Các cơ sở vật chất; Trung tâm nghiên cứu; Những hỗ trợ từ nền công nghiệp.
Tại Thái Lan, mô hình Tòa SHTT và Thương mại quốc tế Thái Lan (IPIT Court) là một trong những mô hình tòa chuyên trách đóng vai trò quan trọng và hoạt động hiệu quả nhất của khu vực Châu Á. Tòa án này được thành lập ngày 01/12/1997 với thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự và dân sự và là Tòa án chuyên trách về SHTT đầu tiên ở Đông Nam Á. Các thẩm phán của IPIT Court thường xuyên được đào tạo nghiệp vụ. Thẩm phán nghiệp vụ trong IPIT sẽ được bổ nhiệm từ các quan chức tư pháp có thẩm quyền[10], những thẩm phán này là những người có kiến thức về các vấn đề liên quan đến quyền SHTT hoặc thương mại quốc tế. Các thẩm phán chuyên trách sẽ được bổ nhiệm từ các chuyên gia SHTT hoặc thương mại quốc tế bởi Ủy ban tư pháp, tuy nhiên ngoài những yêu cầu khác thì những người được bổ nhiệm này không thể là luật sư[11]. Hội đồng xét xử bao gồm tối thiểu 2 thẩm phán nghiệp vụ và 1 thẩm phán chuyên trách. Phán quyết hoặc lệnh của Tòa án được đưa ra khi có đa số phiếu thông qua. Nếu trong vụ án hình sự có một hành vi vi phạm một số tội hoặc một số hành vi vi phạm nhiều tội khác liên quan mà một số tội không thuộc thẩm quyền của Tòa IPIT thì Tòa án cũng sẽ chấp nhận giải quyết vụ án bao gồm cả các tội danh khác[12].
3. Một số đề xuất nâng cao hiệu quả cơ chế tài phán quốc gia về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam đáp ứng tinh thần của Nghị quyết 68/NQ/TW
Từ những phân tích và lập luận trên đây, có thể thấy việc thành lập Tòa án chuyên trách để giải quyết các tranh chấp liên quan đến SHTT là cần thiết, đặc biệt, số lượng các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực SHTT phát sinh ngày một nhiều và có xu hướng phức tạp hơn tại Việt Nam. Chính bởi vậy,
Thứ nhất, pháp luật về tổ chức tòa án nhân dân và các văn bản liên quan cần tiếp tục được hoàn thiện nhằm xây dựng cơ chế tài phán quốc gia về SHTT theo hướng chuyên môn hóa trong việc xét xử, bảo vệ triệt để quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư nước ngoài cũng như đảm bảo thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam. Theo đó, cần bổ sung thêm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự liên quan đến SHTT cho các tòa SHTT tại tòa án nhân dân khu vực xuất phát từ những đặc thù trong việc xác định tội danh, đánh giá chứng cứ, định giá tài sản trí tuệ và xác định mức hình phạt tương ứng. Điều này đòi hỏi thẩm phán cần có kiến thức chuyên sâu về SHTT, hiểu được những đặc trưng cơ bản của cấu thành tội phạm đối với nhóm tội liên quan đến SHTT để từ đó xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đảm bảo quyền sở hữu thành quả sáng tạo trí tuệ của các chủ thể kinh doanh, khuyến khích đổi mới sáng tạo và thúc đẩy phát triển khoa học, kỹ thuật. Bên cạnh đó, khi số lượng vụ việc gia tăng, việc xét xử phát sinh nhiều vụ việc phải xét xử phúc thẩm, pháp luật cần có quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền xét xử của tòa chuyên trách SHTT thuộc hệ thống Tòa án nhân dân cấp tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
– Thứ hai, về biên chế, Tòa án SHTT thuộc tòa án nhân dân khu vực và Tòa chuyên trách SHTT tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh (nếu có) phải có ít nhất 3 Thẩm phán, 3 Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án[13]. Ngoài ra, việc xác định biên chế, số lượng Thẩm phán cần căn cứ vào các yếu tố như tính chất, đặc điểm, mức độ phức tạp và quy mô, phạm vi, đối tượng quản lý; Quy trình quản lý chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân; Mức độ hiện đại hóa công sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin và thực tế tình hình quản lý biên chế công chức được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Bên cạnh đó, biên chế của các Tòa án chuyên trách về SHTT còn phải dựa trên quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; đặc điểm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
– Thứ ba, về nhân sự, do đặc thù của lĩnh vực SHTT, thẩm phán của tòa chuyên trách phải được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sâu về SHTT, có thời gian công tác thực tiễn và có khả năng sử dụng ngoại ngữ tốt, đặc biệt là tiếng Anh. Trong hoạt động tuyển dụng thẩm phán, cần có cơ chế ưu tiên đối với các cá nhân có công trình nghiên cứu về SHTT, đã được đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về SHTT ở nước ngoài hay có kiến thức về khoa học, công nghệ. Các thẩm phán này cũng thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng để nắm bắt được những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ mới phát sinh trong thực tiễn như trí tuệ nhân tạo, công nghệ vũ trụ ảo, thương mại điện tử.
– Thứ tư, về trình tự, thủ tục, pháp luật cần quy định thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp về SHTT tương ứng với tính chất của vụ việc. Đối với những vụ việc có tính chất đơn giản, Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng các quy định về thủ tục xét xử nhanh. Trong khi đó, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, liên quan đến yếu tố kỹ thuật, Thẩm phán áp dụng thủ tục xét xử thông thường để có điều kiện đánh giá chính xác bản chất sự việc, tham khảo ý kiến của các đơn vị chuyên môn cũng như thu thập, nghiên cứu chứng cứ một cách kỹ lưỡng, cẩn trọng. Bên cạnh đó, Tòa án cần xây dựng cơ chế ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng nhằm tạo điều kiện cho các đương sự ở nước ngoài thực hiện các yêu cầu, trao đổi thông tin và cung cấp chứng cứ một cách nhanh chóng, thuận tiện. Hơn nữa, cần trang bị máy móc, phương tiện, thiết bị để đương sự ở nước ngoài có thể tham dự phiên tòa trực tuyến nhằm giảm thiểu chi phí, đơn giản hóa thủ tục nhưng vẫn đảm bảo chất lượng xét xử.
[1] Mục 2.2 phần III. Nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 68/NQ-TW ngày 04/05/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
[2] Khoản 8 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2025 sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 60 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024.
[3] Khoản 3 Điều 4 Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực; quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực
[4] Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2025 sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 36 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[5] Khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2025 sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 38 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[6] Khoản 4 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2025 sửa đổi, bổ sung Điều 31a vào sau Điều 31 Luật Tố tụng hành chính.
[7] Khoản 5, khoản 6 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2025 sửa đổi, bổ sung Điều 32 và bổ sung Điều 32a Luật Tố tụng hành chính.
[8] Xem tại: https://www.ip.courts.go.jp/eng/aboutus/history/index.html, truy cập ngày 08/09/2025.
[9] Hoàng Hà (2008), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần có tòa chuyên trách, xem tại: https://phapluatdansu.edu.vn/2008/04/10/12/33/6598/, truy cập ngày 06/09/2025.
[10] Điều 14 Luật thủ tục tố tụng của Tòa SHTT và thương mại quốc tế Thái Lan (The Act for the Establishment of and Procedure for Intellectual Property and International Trade Court B.E. 2539 (1996).
[11] Điều 15 Luật thủ tục tố tụng của Tòa SHTT và thương mại quốc tế Thái Lan (The Act for the Establishment of and Procedure for Intellectual Property and International Trade Court B.E. 2539 (1996).
[12] Điều 35, 36, Luật thủ tục tố tụng của Tòa SHTT và thương mại quốc tế Thái Lan (The Act for the Establishment of and Procedure for Intellectual Property and International Trade Court B.E. 2539 (1996).[13] Công văn số 26/TANDTC-TCCB về việc góp ý phương án tổ chức tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao. Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Thu-tuc-To-tung/Cong-van-26-TANDTC-TCCB-2018-gop-y-phuong-an-to-chuc-toa-chuyen-trach-372332.aspx, truy cập ngày 08/09/2025.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 68/NQ-TW ngày 04/05/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 06 năm 2024.
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 06 năm 2025.
4. Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực; quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực.
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án ngày 25 tháng 06 năm 2025.
6. Luật thủ tục tố tụng của Tòa SHTT và thương mại quốc tế Thái Lan năm 1996.
7. Công văn số 26/TANDTC-TCCB về việc góp ý phương án tổ chức tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao. Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Thu-tuc-To-tung/Cong-van-26-TANDTC-TCCB-2018-gop-y-phuong-an-to-chuc-toa-chuyen-trach-372332.aspx, truy cập ngày 08/09/2025.
8. Webiste: https://www.ip.courts.go.jp/eng/aboutus/history/index.html, truy cập ngày 08/09/2025.
9. Hoàng Hà (2008), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần có tòa chuyên trách, xem tại: https://phapluatdansu.edu.vn/2008/04/10/12/33/6598/, truy cập ngày 06/09/2025.
Nguồn: TS. PHẠM MINH HUYỀN – Trường Đại học Luật Hà Nội – Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam






Để lại một bình luận